Công An Huyện Ngăn Cản Người Dân Đi Lễ

VRNs - 31.08.2013:  Nghệ An – Đang trong lúc nhà nước Việt Nam vận động để được trở thành thành viên của Hội đồng nhân quyền LHQ, thì công an ở tại nhiều nơi ở Việt Nam vẫn rat ay đàn áp tôn giáo như mới xảy ra hôm 28.08 tại Cần Thờ.

Nhân đây, chúng tôi muốn tường thuật lại một sự việc xảy ra tại huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, cách nay ba tháng.

Vào ngày 25.05.2013, tại giáo xứ Song Ngọc, xã Quỳnh Ngọc, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An đã xảy ra việc công an ngăn cản người dân đi lễ.
Nhận được tin, chúng tôi lên gặp trực tiếp cha JB Nguyễn Đình Thục là xứ giáo xứ Song Ngọc, cùng chị Maria Nguyễn Thị Huế là giáo dân Song Ngọc, để nghe kể lại vụ việc xảy ra vừa rồi.

Cha không trực tiếp bị bắt bớ nhưng Ngài được các giáo dân cho biết. Cha kể: “Vào lúc 6h30 phút Ngày 25.05.2013. Tôi được ông Trình, trưởng Ban hành giáo xứ gọi điện báo, con cùng 11 người trong giáo xứ đi tham dự Lễ khấn dòng nhưng đến ngã tư Cầu Giát thì bị công an chặn đường và triểm tra, Họ bắt đem trả khách Song Ngọc về”.

Ông Trình kể chi tiết sựviệc như sau: “Một số công an chặn xe và gọi tài xế ra sau xe nói gì thì chúng con không biết. Nhưng sau đó tài xế đã cho xe quay trở về. Dọc đường tài xế có nói là do trên xe có người giáo dân Song Ngọc nên công an bắt phải trả hết khách Song Ngọc rồi mới cho xe chạy”.

Cha Thục cho biết: “Ngay lúc đó tôi gọi điện cho công an huyện và hỏi tại sao như thế? Tôi nói thẳng làm như vậy là đàn áp tôn giáo. Tại sao các ông không cho giáo dân đi Lễ? Lần này là cấm đi lễ lần sau sẽ cấm không cho dâng lễ trong nhà thờ phải không? Công an chổi thẳng rằng ‘không phải đâu cụ. Đây có thể là vấn đề liên quan đến xe, do đông người hay thế nào đó”.

Cha Thục kể tiếp: “Bức xúc quá nên tôi đã trực tiếp gọi cho công an tỉnh Nghệ An. Tôi hỏi: ‘không cho người tôi đi lễ có phải là đàn áp công giáo không?’ Anh công an nghe máy không nói gì. Tôi lại hỏi tiếp: ‘tại sao các anh lại chỉ thị cho công an huyện Quỳnh Lưu không cho giáo dân Song Ngọc đi lễ? các anh đừng có trắng trợn mà làm việc đó với tôi’.

Lúc này công an Tỉnh mới trả lời: “Sự việc này cụ cứ bình tĩnh. Sự việc này chúng tôi đã trình bày với cụ Giám Mục rồi. Có gì thắc mắc thì cụ cứ gặp cụ Giám Mục”.

Cha Thục cho biết sau đó ngài có đến tận nơi giáo dân bị chặn, nhưng giáo dân đã được trả về, nên không thấy. Một số người không về mà ở lại bắt xe khác để đi tiếp cho kịp dự lễ.

Sáng ngày thứ hai, 27.05, cha Thục xin gặp Chủ Tịch Huyện để yêu cầu làm rõ sự việc. Nhưng họ đã trình bày lý do này lý do khác để từ chối không gặp cha. Thế là vụ việc này lắng xuống.

Chúng tôi hỏi cha tại sao cha không gặp Đức giám mục để tìm hiểu rõ họ đã nói gì cùng Đức giám mục (ĐGM)? Cha Thục nói: “không biết là như thế nào, cũng không biết ngài đã nói gì với họ. Vì thế cha thôi không đặt vấn đề với ĐGM nữa. Cha có nói thêm: “không phải vì cha sợ công an, mà vì biết rõ rằng muốn tố cáo thì phải có bằng chứng, nhân chứng. Vậy mà trong tay cha không có gì để tố cáo cả. Cha rất bực mình, bức xúc trước hành động của công an. Nhưng cũng không làm được gì hơn, vì nhà xe không bao giờ đứng ra tố cáo công an. Làm như vậy thì xe của họ sẽ không bao giờ được làm ăn trên tuyến đường này nữa”.

Cha cũng đã nghi ngờ rằng: “Nguyên nhân công an chặn xe có thể là công an đã biết ý định của chúng ta. Đúng vào ngày lễ khấn Dòng thì Tòa Án Tỉnh Nghệ An xử 14 Thanh Niên Công Giáo tại Thành Phố Vinh. Trước đó, trong Thánh Lễ sáng cha thông báo giáo dân đi lễ khấn và nhân tiện xuống Tòa Án đi tham dự phiên tòa”.

Việc công an ngăn chặn giáo dân đi lễ là vi phạm tựdo tôn giáo. Còn lấy lý do sợ công dân rat ham dự phiên tòa xửa công khai thì công an tiếp tục vi phạm vào quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vài năm nay, tình trạng vị phạm tự do tôn giáo ở Việt Nam không giảm, mà còn gia tang như thường xuyên đàn áp các chức sắc Đạo Cao Đài ở Miền Nam, tấn công thô bạo tin hữu Phật giáo Hòa Hảo. Chỉ riêng tại giáo phận Vinh, công an đã đệp tượng Đức Mẹ tại giáo điểm Con Cuông, đóng cửa nhà nguyện, ngăn cấm giáo dân tham gia phụng vụ.

Anna Bùi Thị Thanh

Ông Lê Hiếu Đằng là ai?


Ts Đặng Huy Văn (Danlambao) - Tôi chưa bao giờ vào đảng và cũng sẽ không bao giờ vào đảng dù có đảng đối lập sắp ra đời. Tôi chỉ là một công dân Việt Nam bình thường yêu nước và yêu dân tộc mình. Nhưng vài tuần qua, sau khi có lời kêu gọi thành lập đảng đối lập mang tên đảng Dân chủ Xã hội VN của ông Lê Hiếu Đằng, tôi thấy đứa cháu ngoại của tôi thư về nói “Báo lề đảng đã lên án, chửi bới và bôi nhọ ông Đằng hết lời!”. Vì vậy, tôi phải viết bài này gửi cho đứa cháu ngoại đang du học tự túc tại Mỹ để nó có thể hiểu được phần nào sự thật. Theo tôi biết, những năm gần đây, ông Đằng là một cựu đảng viên CS tích cực chống Trung Quốc vì đã cưỡng chiếm Hoàng-Trường Sa, xâm phạm trắng trợn Biển Đông của Việt Nam. Ông cũng là người tích cực bảo vệ những người dân đang bị tù đày oan trái. Nhưng đảng đối lập của ông Đằng có ra đời được hay không? Và nếu ra đời được thì trong tương lai, liệu nó có tác dụng tích cực cho Quốc Gia, Dân Tộc không? Hai vấn đề đó còn phải đợi trải qua một thời gian thử thách thì may ra mới có lời giải đáp.

Tôi chỉ biết rằng, những năm trước khi CS Đông Âu sụp đổ 1989, các nước Đông Âu ấy không hề có đảng đối lập. Thời kỳ đó tôi học ở Đông Âu 4 năm liền, nên tôi biết chính xác. Có lẽ ở các nước cộng sản, khái niệm đảng đối lập hoàn toàn xa lạ, giống như Bắc Triều Tiên, Cu Ba, Trung Quốc và Việt Nam hiện nay vậy. Nhưng tại sao họ đã thành công trong cuộc cách mạng dân chủ 1989 tại Đông Âu? Theo tôi, vì họ đã biết dựa vào sức mạnh của toàn dân tộc. Các đảng đối lập ở Đông Âu chỉ mới ra đời sau khi các đế chế cộng sản sụp đổ. Vậy phải chi, đây cũng là một hướng đi của cách mạng Việt Nam?

Ông Lê Hiếu Đằng là ai?
(Viết trả lời cho một đứa cháu ngoại)

Ông Lê Hiếu Đằng là ai?
Mà báo lề đảng chửi hoài vậy ông
Hoàng-Trường Sa đã cho không
Nay ông Đằng giữ Biển Đông làm gì?
Đảng dâng Tàu để phòng khi
Toàn dân nổi dậy còn phi sang Tàu!

Đảng mình đã tính trước sau
Đề phòng có lúc đồng bào đứng lên
Cho nên tranh thủ kiếm tiền
Khi còn cơ hội chức quyền trong tay
Tiền nhiều nhưng túi chưa đầy
Ông đòi đối lập lúc này, còn lâu!

Đối lập để cứu đồng bào
Vậy đảng công sản ai vào cứu đây?
Sao ông Đằng chẳng nhớ ngày
Cùng rơi xương máu đánh Tây hộ Tàu
Để mà hiểu trước, biết sau
Nhỡ mai hoạn nạn nhờ Tàu cứu ông?

Nếu ông Đằng đã quyết lòng
Có người dọa sẽ giam ông hết đời!
Đưa ông vào trại nghỉ ngơi
Để xem đối lập ông đòi được không?
Vào tù mà giữ Biển Đông
Hoàng-Trường Sa với núi sông giống nòi!

Cứ cho đối lập có rồi
Tự do, dân chủ ông đòi kiểu chi?
Đã quen “đập đứng, hò đi” 
Giờ sang đối lập trăm bề khó khăn
Nên chi đoàn kết toàn dân
Vùng lên lật chúng, may chăng hợp thời?

Đông Âu mấy chục năm rồi
Còn nguyên bài học cho người Việt Nam
Lật nhào độc đảng gian tham
Mà không hề làm đổ máu người dân
Ước sao ngày đó đến gần
Ngay trên đất Việt mến thân ngàn đời!


Hà Nội, 31/8/2013


LS Nguyễn Lệnh
29-08-2013

Trước khi Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam ra đời năm 1946, có gần 30 tổ chức có mục đích chính trị, hoạt động công khai hay bí mật tùy theo đường lối, lập trường của tổ chức đó. Những tổ chức có mục đích chính trị này (không phải là tổ chức có mục đích kinh tế, xã hội…) thường đặt tên cho mình là hội, đảng, mặt trận, liên đoàn, liên minh, liên hiệp … Xin liệt kê tên các liên minh và đảng phái chính trị Việt Nam vào thời kỳ trước khi có Hiến pháp 1946 như sau: – Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội – Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội – Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội – Việt Nam Quang phục Hội – Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên – Hội Phục Việt – Đảng Lập hiến Đông Dương – Tân Việt Cách mạng Đảng – Đảng Việt Nam Độc lập – Việt Nam Quốc dân Đảng – Đông Dương Cộng sản Đảng – An Nam Cộng sản Đảng – Đảng Cộng sản Việt Nam – Việt Nam Quốc gia Độc lập Đảng – Đại Việt Dân chính Đảng – Đại Việt Quốc dân Đảng – Đảng Dân chủ Đông Dương – Việt Nam Cách mệnh Đảng – Đại Việt Quốc gia Xã hội Đảng – Đảng Xã hội Việt Nam – Đại Việt Duy tân Cách mệnh Đảng – Đảng Dân chủ Việt Nam – Đông Dương Cộng sản Liên đoàn – Việt Nam Dân chúng Liên đoàn – Mặt trận Quốc gia Thống nhất – Mặt trận Quốc gia Liên hiệp – Đại Việt Quốc gia Liên minh …(*)

Như vậy, một “tổ chức chính trị” – tức là tổ chức có mục đích chính trị, trước năm 1946 có thể mang những tên khác nhau như: Đảng, Hội, Mặt trận, Liên đoàn, Liên minh, Liện hiệp … và để xác định xem hiện nay đã có đủ căn cứ pháp lý hay chưa cho việc thành lập một đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam chúng ta cần phải xem xét một cách đầy đủ các văn bản pháp luật đã được ban hành từ trước đến nay và còn hiệu lực về vấn đề này như sau:

1/ Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 9/11/1946:

Hiến pháp 1946 quy định tại Điều 10: “Công dân Việt Nam có quyền: -Tự do ngôn luận – Tự do xuất bản – Tự do tổ chức và hội họp – Tự do tín ngưỡng – Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài.”

Vì lúc bấy giờ chưa có Luật để giải thích “quyền tự do tổ chức” trong Hiến pháp 1946 là như thế nào nhưng có thể hiểu là: quyền tự do thành lập và tham gia những tổ chức hoạt động có mục đích chính trị, xã hội, kinh tế, nghề nghiệp … Hiến pháp 1946 không có một dòng chữ nào đề cập đến vai trò của bất cứ tổ chức chính trị nào đang hoạt động kể cả Đảng Cộng sản Việt Nam.

2/ Hiệp định Genève 1954 phân chia nước Việt Nam thành 2 quốc gia với 2 chính thể khác nhau:

- Ở miền Nam: Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa (1954 – 1975) tiếp tục áp dụng chế độ đa đảng trong 21 năm. Có tổng cộng 8 tổ chức chính trị, hợp pháp lẫn không hợp pháp là: – Đảng Dân chủ Nam Việt Nam – Đảng Cần lao Nhân vị – Đảng Dân chủ Xã hội Việt Nam – Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam – Đại Việt Quốc dân Đảng – Đại Việt Cách mạng Đảng – Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam – Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam (*).

- Ở miền Bắc: Quốc gia Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn tiếp tục duy trì chế độ đa đảng cho đến khi ban hành Luật quy định quyền lập hội năm 1957, trong đó có quy định về việc “phải xin phép lại” đã làm giảm rất nhiều các tổ chức chính trị thành lập trước ngày ban hành luật này.

3/ Sắc lệnh Luật số 102-SL/L-004 ngày 20/5/1957 Quy định quyền lập hội:

“Quyền lập hội” là thuật ngữ được Luật ngày 20/5/1957 này sử dụng chính thức thay cho “Quyền tổ chức” trong Hiến pháp 1946 với những điều quy định quan trọng như sau:

- Điều 1: “Quyền lập hội của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm. Lập hội phải có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta”.

Quy định tại Điều 1 này không giới hạn lĩnh vực hoạt động của hội: chính trị, xã hội, nghề nghiệp …, miễn là “mục đích” phải “chính đáng, phù hợp với lọi ích nhân dân …”. Tuy nhiên, “quyền tự do tổ chức” tại Điều 10 Hiến pháp 1946 đã bị thu hẹp rất nhiều bởi các quy định tại Điều 3 và 4 về việc “lập hội phải xin phép” đối với hội mới và “phải xin phép lại” đối với hội cũ.

- Điều 3: “Để bảo đảm việc lập hội có mục đích chính đáng, bảo vệ và củng cố chế độ dân chủ nhân dân, lập hội phải xin phép. Thể lệ lập hội sẽ do Chính phủ quy định.”
Với quy định của Điều 3 này, những ai muốn lập hội mới đã phải chờ đến 46 năm thì Chính phủ mới ban hành thể lệ lập hội (30/7/2003).

- Điều 4: “Những hội đã thành lập trước ngày ban hành luật này và đã hoạt động trong vùng tạm chiếm trong thời kỳ kháng chiến, nay muốn tiếp tục hoạt động, đều phải xin phép lại.”

Với quy định tại Điều 4 này, hầu hết những tổ chức chính trị cũ đều không vượt qua được cửa quyền “cấp phép lại” này của Chính phủ.

- Điều 9: “Các đoàn thể dân chủ và các đoàn thể nhân dân đã tham gia Mặt trận dân tộc thống nhất trong thời kỳ kháng chiến, được Quốc hội và Chính phủ công nhận, không thuộc phạm vi quy định của luật này.”

Với quy định của Điều 9 này là nhằm dành quyền “không phải xin phép lại” cho những tổ chức chính trị đã tham gia Mặt trận dân tộc thống nhất.

Mặt trận dân tộc thống nhất (1930 – 1945) do Đảng Cộng sản Việt Nam chủ xướng hình thành và là thành viên tích cực với vai trò lãnh đạo.

- Điều 10: “Các hội có mục đích kinh tế không thuộc phạm vi quy định của luật này.”

Với quy định của Điều 10 này có thể tạm định nghĩa hội theo Luật năm 1957 là những tổ chức hoạt động có các mục đích chính trị, xã hội, nghề nghiệp…nhưng không có mục đích kinh tế (vì lợi nhuận) và phải được Chính phủ cấp phép hoạt động.

Trên thực tế, từ ngày Luật quy định quyền lập hội được ban hành năm 1957 đến ngày Việt Nam thống nhất năm 1975, chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn duy trì chế độ đa đảng nhưng chỉ còn lại 3 tổ chức chính trị. Đó là: Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam và Đảng Dân chủ Việt Nam.

Có thể nhận thấy Luật quy định quyền lập hội năm 1957 này đã quy định rất thoáng về điều kiện thành lập hội: Chỉ cần “có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta”. Nhưng cũng với quy định về việc “phải xin phép lại” đối với hội đã thành lập và “lập hội phải xin phép” đối với hội mới – mà Chính phủ lại không ban hành “thể lệ lập hội” mới, nên đến năm 1975 chỉ còn lại có 3 đảng hoạt động hợp pháp nói trên.

4/ Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 31/12/1959:

Hiến pháp 1959 có nói đến vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1930 ở phần Lời nói đầu.

Quyền lập hội được quy định tại Điều 25 của Hiến pháp: “Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình. Nhà nước đảm bảo những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó.”

Như vậy là cả Hiến pháp 1959 và Luật quy định quyền lập hội 1957 đều thừa nhận chế độ đa đảng.

5/ Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 18/12/1980:

Điều 4 Hiến pháp 1980 quy định rằng: “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Mác – Lênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo đất nước, lãnh đạo xã hội; là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Các tồ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp”.

Điều 67: “Công dân có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập lhội, tự do biểu tình, phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân…”

Chính 2 từ “duy nhất” trong Điều 4 này đã tạo nên chế độ “độc đảng”. Đảng Xã hội và đảng Dân chủ phải “tự giải thể” vào năm 1988. Còn lại duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam.

6/ Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 15/4/1992:

Điều 2: “Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân…”

Nhà nước pháp quyền với định nghĩa căn bản nhất là không có ai ở trên luật hay mọi người phải tuân theo pháp luật.

Điều 4: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng (bỏ 2 từ duy nhất) lãnh đạo nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”

Trong Điều 4 này đã bỏ đi 2 từ duy nhất. Điều này có nghĩa là Hiến pháp 1992 đã hủy bỏ chế độ độc đảng mà Hiến pháp 1980 đã quy định dành cho Đảng Công sản Việt Nam và khiến cho 2 đảng Xã hội và đảng Dân chủ phải tự giải thể năm 1988.

Điều 4 này cũng bổ sung thêm 2 từ “pháp luật” trong cụm từ “khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” nhằm tăng cường giám sát hoạt động của Đảng CSVN bằng pháp luật cho phù hợp với Điều 2 và làm giảm quyền hành quá lớn của Đảng CSVN theo Hiến pháp 1980.

7/ Tại sao Hiến pháp 1992 đã hủy bỏ chế độ độc đảng ?

Theo tôi, về mặt pháp lý, Hiến pháp 1992 phải sửa đổi, bỏ đi 2 từ “duy nhất” trong Điều 4 của Hiến pháp 1980, mặc nhiên hủy bỏ chế độ độc đảng dành cho Đảng CSVN là vì 2 lý do sau:

- Đã có mâu thuẫn pháp lý ngay trong 2 điều của bản Hiến pháp năm 1980, đó là Điều 4 và Điều 67. Một khi Hiến pháp đã quy định là “Công dân có quyền tự do lập hội” – trong hội có bao gồm cả đảng, thì làm sao có thể chỉ có một đảng “duy nhất” được. Sự sai lầm của HIến pháp 1980 đã được Hiến pháp 1992 sửa sai.

- Ngày 24/9/1982 Việt Nam đã gia nhập “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị -1966″ nên phải thực hiện cam kết của mình bằng cách hủy bỏ 2 từ “duy nhất” trong Điều 4 Hiến pháp 1980 nhằm thực hiện các quyền và tự do của con người theo Hiến chương Liên Hợp Quốc, trong đó có quyền tự do lập hội. Xin trích Điều 2 khoản 2 của Công ước quốc tế này như sau: “Trong trường hợp quy định trên đây chưa được thể hiên bằng các biện pháp lập pháp hoặc các biện pháp khác, thì mỗi quốc gia thành viên Công ước cam kết sẽ tiến hành các bước cần thiết, phù hợp với trình tự pháp luật nước mình và những quy định của Công ước này, để ban hành pháp luật và những biện pháp cần thiết khác nhằm thực hiện các quyền được công nhận trong Công ước này” .

8/ Bộ luật dân sự đầu tiên năm 1995:

Bộ luật dân sự năm 1995 là văn bản pháp luật đầu tiên quy định về pháp nhân. Bên cạnh các quy định về điều kiện để được công nhận là pháp nhân (Điều 94) và pháp nhân được thành lập theo sáng kiến cá nhân, tổ chức hay theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Điều 95) thì quy định của BLDS về các loại pháp nhân tại Điều 110 là rất đáng chú ý:

“Điều 110. Các loại pháp nhân:

1. Pháp nhân bao gồm các loại sau đây:
a/ Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang;
b/ Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội;
c/ Tổ chức kinh tế;
d/ Tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp;
đ/ Quỹ xã hội, quỹ từ thiện;
e/ Các tổ chức khác có đủ điều kiện quy định tại Điều 94 của Bộ luật này.
2. Quy chế tổ chức và hoạt động của các loại pháp nhân do pháp luật quy định tùy thuộc vào mục đích hoạt động của mỗi loại pháp nhân.” Căn cứ vào Điều 110 này của BLDS năm 1995 và căn cứ vào Điều 1 và Điều 10 của Luật quy định quyền lập hội năm 1957 thì có 6 loại pháp nhân sau đây thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật quy định quyền lập hội năm 1957. Đó là: 1. Tổ chức chính trị, 2.Tổ chức chính tri – xã hội, 3.Tổ chức xã hội, 4.Tổ chức xã hội-nghề nghiệp, 5.Quỹ xã hội, 6.Quỹ từ thiện.

Như vậy, một pháp nhân được xác định là tổ chức chính trị khi có mục đích hoạt động chính trị. Đảng là một tổ chức chính trị có tư cách pháp nhân theo quy định của BLDS. Đảng là 1 trong 6 loại pháp nhân thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật quy định quyền lập hội năm 1957.

Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam có ghi: “Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.”

“Mục đích hoạt động” chính là nội dung cơ bản để phân biệt các loại pháp nhân được Luật quy định quyền lập hội năm 1957 điều chỉnh.

9/ Nghị định của Chính phủ số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội:

Nghị định này căn cứ Sắc lệnh số 102/SL-L004 ngày 20/5/1957 ban hành Luật quy định quyền lập hội.

Nghị định này chính là “thể lệ lập hội” mà Luật quy định quyền lập hội năm 1957 có quy định tại Điều 3 là “sẽ do Chính phủ quy định”. Một từ “sẽ” trong Luật quy định quyền lập hội 1957 lại bị Chính phủ kéo dài đến 46 năm (!).

Nghị định này của Chính phủ đã đưa ra một định nghĩa “khó hiểu” về hội tại Điều 2. Thậm chí, có thể nói là Nghị định đã bóp méo, đã làm sai lệch hoàn toàn ý nghĩa so với định nghĩa rất thoáng tại Điều 1 của Luật quy định quyền lập hội 1957. Xin trích dẫn Điều 2 của Nghị định:
“Điều 2. Hội 1.

Hội được quy định trong Nghị định này được hiểu là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên; hổ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, được tổ chức và hoạt động theo Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.

2. Hội có các tên gọi khác nhau: liên hiệp hội, tổng hội, liên đoàn, hiệp hội, câu lạc bộ có tư cách pháp nhân và các tên gọi khác theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là hội)” .

Sự “khó hiểu” trong Nghị định chính là : – Điều 1 Luật quy định quyền lập hội 1957: “Lập hội phải có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta” .

“Mục đích” trong Điều 1 Luật quy định quyền lập hội năm 1957 đã bị diễn giải hoàn toàn khác hẳn trong Điều 2 Nghị định Chính phủ năm 2003.

- Điều 110 Bộ luật dân sự 1995 khi phân loại các pháp nhân cũng quy định tại khoản 2 rằng: “Quy chế tổ chức và hoạt động của các loại pháp nhân do pháp luật quy định và tùy thuộc vào mục đích hoạt động của mỗi loại pháp nhân”.

“Mục đích hoạt động” bao gồm: chính trị, xã hội, kinh tế, nghề nghiệp. Đó là tiêu chuẩn để phân loại tổ chức là pháp nhân theo BLDS.

Còn khoản 2 của Điều 2 Nghị định này lại cố ý chỉ định một số tên gọi như là hội, liên hiệp hội, tổng hội, liên đoàn, hiệp hội, câu lạc bộ nhằm loại khỏi Nghị định tên gọi đảng là tổ chức chính trị thường được sử dụng mà chính Luật quy định quyền lập hội 1957 đã bao gồm trong đó. Điều quy định này của Nghị định là “khó hiểu” và trái với nội dung thể hiện trong Luật quy định quyền lập hội 1957.

Tuy nhiên, Nghị định này lại công nhận các “tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị – xã hội nghề nghiệp” cũng là hội, tại khoản 2 Điều 4.

Trong hệ cấp các văn bản pháp luật thì Luật cao hơn Nghị định. Vì vậy, những điểm nào trong Nghị định không rõ ràng hoặc trái với Luật thì sẽ áp dụng quy định trong Luật.

Như vậy, Nghị định Chính phủ số 88/2003NĐ-CP ngày 30/7/2003 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội đã ban hành “thể lệ lập hội” căn cứ vào Luật quy định quyền lập hội năm 1957. Mà Luật quy định quyền lập hội năm 1957 lại tôn trọng và bảo đảm quyền lập hội của nhân dân. Người dân có quyền tự do lập hội, miễn là lập hội phải có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta như đã quy định tại Điều 1 của Luật này. Vì vậy, Điều 1 của Luật quy định quyền lập hội 1957 được áp dụng thay vì áp dụng Điều 2 Nghị định Chính phủ 2003.

10/ Các căn cứ pháp lý để thành lập một đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam:

Như trình bày nêu trên, đã có đủ căn cứ pháp lý để thành lập một đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam. Các căn cứ đó là:

- Các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 (sửa đổi bổ sung 2001) đều quy định quyền tự do lập hội của công dân.

- Sắc lệnh Luật số 102-SL/L-004 ngày 20/5/1957 quy định quyền lập hội trong đó có tổ chức đảng. Luật này quy định rõ rằng: “Quyền lập hội của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm. Lập hội phải có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta”. Mọi quy định trong văn bản dưới luật của Chính phủ khi ban hành “thể lệ lập hội” trái với Luật này đều bị coi là vi phạm Luật và bị hủy bỏ.

- Bộ luật dân sự năm 1995 đã phân ra 9 loại pháp nhân, trong đó có 6 loại pháp nhân được điều chỉnh bởi Luật quy định quyền lập hội là: – Tổ chức chính tri, Tổ chức chính trị – xã hội, Tổ chức xã hội, Tổ chức xã hội – nghề nghiệp, Quỹ xã hội, Quỹ từ thiện. Bộ luật dân sự năm 2005 có bổ sung thêm một loại pháp nhân nằm trong hội nữa là: Tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp.

- Nghị định của Chính phủ số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội. Nghị định này căn cứ vào Luật quy định quyền lập hội 1957 để ban hành “thể lệ lập hội”. Nghị định này được thay thế bởi Nghị định Chính phủ số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 với chút ít điều chỉnh, bổ sung.

- Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966 mà nước Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982, cam kết thực hiện các quyền được công nhận trong Công ước này. Khoản 1 Điều 22 Công ước này quy định: “Mọi người có quyền tự do lập hội với những người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các công đòan để bảo vệ lợi ích của mình”.

- Đặc biệt là quy định tại Điều 4 Hiến pháp 1980 rằng “Đảng CSVN … là lực lượng duy nhất lãnh đạo đất nước, lãnh đạo xã hội…” đã bị Hiến pháp năm 1992 hủy bỏ 2 từ “duy nhất” tại Điều 4. Tức là Hiến pháp 1992 đã không thừa nhận chế độ “độc đảng” của Đảng Cộng sản VN trong Hiến pháp 1980.

Với những những điều trình bày trên cho thấy hệ thống pháp luật Việt Nam và Công ước quốc tế mà VN tham gia đã có đủ căn cứ pháp lý để công dân Việt nam thành lập một đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là ý kiến cá nhân. Tôi mong có một hội thảo chính thức về vấn đề pháp lý này để mọi công dân Việt Nam được hiểu rõ hơn về một quyền chính trị rất quan trọng của mình.

———
(*) Theo Wikipedia tiếng Việt 

Nguồn: Ba Sàm.

Những người chiến sĩ trong thời bình


Khánh Trâm (BVN) - Tôi chỉ mong dân tộc ta có thêm nhiều CHIẾN SỸ trong thời bình như hình ảnh người con gái tuổi 20 này. Những người CHIẾN SỸ biết mình muốn gì và dân tộc mình cần gì… Tôi nhớ có câu nói khá nổi tiếng: “Thành công là một cuộc hành trình chứ không phải chỉ là đích đến”. Hành động thường quan trọng hơn kết quả là vậy (bởi nếu không có hành động thì làm sao có kết quả?). Tác giả của câu nói trên còn khuyên: “Enjoy the journey!” Hành trình dân chủ tuy nhiều chông gai, hiểm nguy (và đầy vật cản trên con đường ấy), nhưng tôi vẫn tin những “chiến sỹ” đã lựa chọn con đường này họ có cách vui hưởng hành trình của mình, bởi họ có niềm tin: “Nước nhà được độc lập mà người dân không được hưởng tự do thì độc lập chẳng có nghĩa lý gì”, chỉ có con đường dân chủ hóa đất nước mới mong có được Tự Do cho nhân dân...

*

Ngày 18 tháng 3 năm 1979 khi nhà cầm quyền Bắc Kinh tuyên bố trước thế giới rút quân khỏi biên giới phía Bắc nước ta, kết thúc 30 ngày đêm của thứ chiến tranh lấy thịt đè người, lớn bắt nạt bé (mà ông Đặng Tiểu Bình ngang nhiên tuyên bố là “dạy cho Việt Nam một bài học”), và những trận đánh cảm tử mà nổi bật là trận chiến Lão Sơn-Hà Giang (1984) hay trận chiến Gạc Ma ngoài biển Đông (1988), kể từ đó tiếng súng chiến tranh không còn vang lên trên lãnh thổ nước ta và từ đây Việt Nam mới thực sự bình yên (nói một cách tương đối) để bắt tay xây dựng đất nước. Tính ra suốt từ những năm 60 của thế kỷ XIX cho đến những năm 80 của thế kỷ thế kỷ XX, thời gian chỉ hơn một thế kỷ thế mà cái mảnh đất bé nhỏ hình chữ S này liên miên ngập tràn trong các cuộc chiến rất tang thương để rồi hơn 5 triệu người thiệt mạng (bằng dân số Phần Lan hiện nay). Trong thời chiến, vũ khí của những người lính và nhân dân là súng đạn, là lòng can đảm, là mưu trí, là tình yêu tổ quốc quê hương.

Hôm nay, chúng ta được hưởng những năm tháng không tiếng súng đã ba thập kỷ, một khoảng thời gian mà nước Nhật sau đại chiến thế giới thứ 2 tan hoang là thế, vậy mà họ đã vực dậy kiến thiết xây dựng lại đất nước của thần mặt trời trở thành cường quốc số 1 ở Châu Á, và cùng với Nhật các nước khác như Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Malaysia, Đài Loan... cũng kịp vươn lên trở thành những nền kinh tế lớn của khu vực. So sánh như vậy để thấy Việt Nam mình hiện đang ở đâu. Nếu bỏ qua cái tính tự ty để mà nhìn thẳng vào sự thật thì chúng ta hiện đang tụt hậu rất xa so với các nước láng giềng về mọi mặt. Có lẽ bài vè trong dân gian “Việt Nam bây giờ mọi thứ đều nhất thế giới” đã nói lên tất cả: “Vợ rẻ nhất thế giới/ sữa đắt nhất thế giới/ xăng cao nhất thế giới/ xe hơi đắt nhất thế giới/ thuốc tây đắt nhất thế giới/ uống rượu nhiều nhất thế giới/ đánh bạc, số đề nhiều nhất thế giới/ trẻ em thất học, bỏ học nhiều nhất thế giới/ tai nạn giao thông nhiều nhất thế giới/ tham nhũng nhiều nhất thế giới/ dân lại nghèo nhất thế giới / bởi vô cảm và dối trá nhiều nhất thế giới (!)”. Hàng ngày chúng ta đọc báo, nghe đài, xem tivi… và nếu chịu khó xâu chuỗi những nội dung truyền tải trên các phương tiện truyền thông ấy sẽ thấy cái bức tranh tổng kết của dân gian qua bài vè kia là khá chính xác. Có thể nói chưa thời nào người phụ nữ Việt Nam lại chịu cái cảnh nhục nhã đứng xếp hàng cho người ngoại quốc chọn vợ, người công nhân bị các ông chủ ngoại quốc đánh đập, số khác phải ra nước ngoài làm thuê bị nhốt trong những xưởng may hay công trường xây dựng và phải làm việc đến kiệt sức, người dân nghèo ở các miền quê bản thân còn không đủ ăn mà phải cõng trên lưng nhiều thứ “đóng góp” bắt buộc, trẻ em miền núi thiếu đạm phải ăn thịt chuột, miền đồng bằng phải ăn khoai lang thay cơm, trẻ sơ sinh thì chết oan vì bác sỹ thiếu y đức… trong khi đó quan chức thì đánh cờ bạc tỷ, cảnh sát giao thông thì “làm luật” trắng trợn, hiệu trưởng thì môi giới bán dâm học trò, Việt Nam được thế giới cho đứng vào danh sách đầu bảng về các quốc gia tham nhũng nhất thế giới (ông chủ tịch nước thẳng thắn công nhận là “một bầy sâu”), đất nước đứng trên bờ vực thẳm về mọi mặt, thế nhưng những người thoát được cái “sợ” để cất tiếng nói thì đang phải chịu án hình sự vì “Việt nam không có tù nhân lương tâm”… Ôi, nếu còn kể tiếp thì người có trái tim sắt đá cũng cảm thấy choáng váng!

Đứng trước thực tại rất đau lòng này, những người công dân còn chút lương tri không thể không ngậm ngùi. Nhiều người vẫn cất tiếng nói. Vâng, thời bình cũng rất cần những “chiến sỹ” để “xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” để “sánh vai với các cường quốc năm châu”… Thứ vũ khí của người chiến sỹ thời bình là gì? Đó là cây bút, là trí tuệ, là lương tri, là lòng can đảm, và tất cả cũng chỉ vì tình yêu tổ quốc quê hương.

Tôi ngồi lặng lẽ ngắm nhìn những người chiến sỹ trên các “mặt trận”: từ văn hóa, giáo dục, môi trường, đấu tranh dân chủ đến bảo vệ chủ quyền biển đảo. Trong số họ có đầy đủ nam, phụ, lão, ấu. Nhiều người còn khá trẻ nhưng cũng có nhiều người “mái đầu sương điểm” hay “phơ phơ đầu bạc”. Nhiều người hữu danh, nhiều người vô danh. Họ là những chiến sỹ thầm lặng nhưng trên đôi vai của họ cũng nén đầy trách nhiệm, hệt như những người ở hậu phương trong chiến tranh khi xưa cùng có chung mục đích “tất cả cho tiền tuyến”.

Về văn hóa giáo dục: Trong vài năm trở lại đây, đứng trước hiện trạng giáo dục ngày càng xuống cấp, giáo trình giáo khoa nặng về hình thức, quá tải về nội dung và những người chịu trách nhiệm trong ngành giáo dục vẫn duy trì việc “đem con em nhân dân ra làm thí nghiệm” hết năm này đến năm khác, thập kỷ này đến thập kỷ khác, một nhóm chuyên gia và giáo viên có kinh nghiệm và tâm huyết với giáo dục đứng đầu là nhà giáo Phạm Toàn đảm nhiệm chức năng trưởng nhóm, đã thành lập nhóm viết sách giáo khoa mang tên Cánh Buồm. Nhóm ra đời từ năm 2009 với mục tiêu làm ra một bộ sách giáo khoa (bắt đầu từ bậc tiểu học) nhằm “ hiện đại hóa nền giáo dục Việt nam” và “ đảm bảo hạnh phúc đi học cho trẻ em ”. Cho đến nay nhóm đã đưa ra xã hội, đã “trình làng” những sản phẩm cụ thể, đó là các bộ sách: Văn (lớp 1,2,3,4,5); Tiếng Việt (lớp 1,2,3,4,5); Lối sống (1,2,3); Tiếng Anh (lớp 1,2,3); Khoa học-Công nghệ (lớp 1,2)… và đã tổ chức được nhiều hội thảo để lấy ý kiến của các chuyên gia giáo dục và cha mẹ học sinh: “Hiểu trẻ em-Dạy trẻ em” (2009); “Chào lớp Một” (2010); “Tự học- Tự giáo dục” (2011); “Một cánh buồm-Một nhà trường hiện đại” (2012); “Nhìn bằng con mắt trẻ thơ” (2013). Tiếp nối là các hoạt động khác. Tháng 7/2013 Cánh Buồm đã cho ra mắt “Ngày sư phạm Cánh Buồm” là buổi sinh hoạt thường kỳ một tháng một lần, nơi trao đổi và chia sẻ những vấn đề liên quan đến tâm lý trẻ em, cách trẻ em học thế nào, chơi ra sao hay thảo luận về phương pháp dạy... Đối tượng tham dự gồm có giáo viên các trường tiểu học, phụ huynh học sinh, sinh viên các trường sư phạm, các nhà nghiên cứu giáo dục, những người quan tâm đến lĩnh vực này. Ngoài ra còn có những lớp dạy học theo chương trình của nhóm biên soạn... Trẻ em đến với với học đầy hứng thú, say mê vì ở đó các em được đối thoại, được “học mà chơi-chơi mà học” chứ không bị nhồi nhét kiến thức một chiều. Nhìn vào những nỗ lực không ngừng nghỉ này, chắc chắn một ngày không xa, phương pháp và giáo trình của Cánh Buồm sẽ dần dần làm lu mờ, thậm chí góp phần đẩy lùi “Bốn căn trọng bệnh của giáo dục Việt Nam: bệnh thành tích, bệnh cào bằng, bệnh gian dối, bệnh suy dinh dưỡng”.

Chúng ta gọi họ là những CHIẾN SỸ bởi lẽ những con người này làm việc thiện nguyện, không có lương, không có thù lao, không cơ sở vật chất... vậy mà suốt 4 năm qua vì thế hệ trẻ, họ đã làm được nhiều việc mà những người được giao trọng trách, được hưởng lương bổng, được nhận nhiều ưu đãi của xã hội cũng không làm được.

Về môi trường: Giở những trang báo giấy, báo điện tử đưa những tin tức về môi trường ta có nhận xét ngay: Việt Nam cũng là quốc gia “đi tiên phong” trong vấn đề hủy hoại sinh thái và tàn phá môi trường . Sau chiến tranh, tốc độ khai thác rừng còn gấp nhiều lần số diện tích rừng bị tàn phá do chất làm rụng lá. Chẳng thế mà câu hát “gỗ miền núi về xuôi xây đời mới/ thắm tình giữa miền xuôi và miền ngược ” (bài “Hà Giang quê tôi”) nay được dân gian chế lời mới: “gỗ miền núi từ nay không còn nữa/ hết tình giữa miền xuôi và miền ngược”. Ai nghe cũng cười nhưng cái cười thật chua xót ! Chính vì thế, nhiều người đã lên tiếng bảo vệ môi trường. Không chỉ là gỗ, là rừng mà việc tận dụng khai thác khoảng sản hiện nay cũng đang là nguyên nhân tàn phá, hủy diệt môi trường (thậm chí có nơi còn thậm nguy đến an ninh quốc gia). Có thể kể ra đây 2 thí dụ tiêu biều: Dự án khai thác Bauxite Tây Nguyên (đang tiến hành mà kết quả thua lỗ nặng) và dự án xây dựng thủy điện 6, 6A đang trong quá trình thẩm định, nếu được phê duyệt sẽ tàn phá phần lớn diện tích cánh rừng Nam Cát Tiên và khu dự trữ sinh quyển thế giới.

Ví dụ thứ nhất: Dự án khai thác Bauxite Tây Nguyên, ngay từ năm 2009 là năm bắt đầu khởi công xây dựng nhà máy Nhân Cơ đã gây ra một làn sóng phản đối mạnh mẽ trong giới tri thức và nhân dân vì nó “vi phạm luật di sản văn hóa và luật bảo vệ môi trường”. (Đơn kiện thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng của luật sư Cù Huy Hà Vũ). Ngay từ đầu ai cũng thấy dự án có nguy cơ thua lỗ về mặt kinh tế và tàn phá môi trường, là quả “bom hẹn giờ” treo trên đầu người dân ở hạ nguồn và làm ô nhiễm sông Đồng Nai… Hậu quả của nó thật là kinh khủng. Biết bao nhiêu bài viết khoa học, đầy trách nhiệm của các nhà khoa học có chuyên môn trong và ngoài nước, kể cả thư ngỏ của danh tướng Võ Nguyên Giáp nhưng vẫn không ngăn cản được bởi vì đó là “chủ trương lớn của Đảng và chính phủ, là quyết tâm của Bộ chính trị”. Đứng trước thảm họa nhìn thấy sờ sờ này, nhóm Bauxite Việt Nam do ba người khởi xướng: Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, nhà giáo Phạm Toàn và GS Tiến sỹ Nguyễn Thế Hùng đã đứng ra lập nên trang mạng phản biện của giới tri thức do GS Nguyễn Huệ Chi điều hành bắt chấp nguy hiểm bản thân và nhiều lần bị chính quyền gây khó dễ. Ngày 12/4/2009 nhóm đã thảo ra “Kiến nghị về quy hoạch và các dự án khai thác bauxite ở Việt Nam” gửi đến Chủ tịch nước, Chủ tịch quốc hội, Thủ tướng chính phủ đề nghị cho dừng dự án và đã nhận được gần 2800 chữ ký ủng hộ của rất nhiều nhân sỹ tri thức và nhân dân trong và ngoài nước. 

Nhóm Bauxite và những người phản đối dự án khai thác bauxite Tây Nguyên (ký tên hoặc ủng hộ kiến nghị) là những người CHIẾN SỸ.

Ví dụ thứ hai: Năm 2012 truyền thông đưa tin Thạc sỹ Nguyễn Huỳnh Thuật gửi tâm thư lên chủ tịch nước để thỉnh cầu việc cần thiết ngăn chặn ngay dự án thủy điện 6, 6A cắt ngang rừng Nam Cát Tiên, mất đi diện tích 137 hecta rừng trong vùng lõi, ảnh hưởng đến Bầu Sấu (khu ngập nước Ramsar, khu dự trữ sinh quyển thế giới). Là cán bộ công tác ở Vườn Quốc gia Cát Tiên, chuyên gia về đa dạng sinh học, là người có chuyên môn, nhận thức được việc đe dọa làm mất mát không chỉ tài nguyên rừng mà còn xâm phạm nhiều di chỉ văn hóa của tộc người Mạ (di chỉ Óc Eo), Thạc sỹ Thuật đã cùng nhóm bạn lập ra trang thông tin điện tử “Savingcattiennationalpark.blogspot.com”. Nhóm lấy tên “Yêu quý bảo vệ Rừng Cát Tiên” để đưa tin và kêu gọi người dân đồng hành phản đối 2 dự án thủy điện trên bởi “Vườn Quốc gia Cát Tiên là tài sản quốc gia, là tài sản chung, nếu ai cũng bỏ mặc thì tài nguyên Việt Nam sẽ nhanh chóng mất sạch, mà cuối cùng, chỉ có người dân gánh chịu hậu quả”. Lời kêu gọi đã thu hút được 4700 chữ ký ủng hộ. Là người gửi tâm thư, cùng bạn bè tập hợp các nguồn ý kiến, theo đuổi đến cùng công việc gìn giữ môi trường này, thạc sỹ Thuật chấp nhận hy sinh cá nhân (anh không còn công tác ở Vườn Quốc gia Nam Cát Tiên nữa).

Nhóm “Yêu quý bảo vệ Rừng Cát Tiên” là những CHIẾN SỸ. Việc làm của các bạn là góp thêm viên gạch để xây dựng xã hội dân sự mà ở đó người dân được cất tiếng nói, được đóng góp xây dựng và gìn giữ môi trường sống.

Về đấu tranh dân chủ, xây dựng xã hội dân sự và bảo vệ tổ quốc: Những năm gần đây chúng ta được chứng kiến nhiều nhóm thiện nguyện, nhiều cá nhân đóng góp các hoạt động rất hữu ích cho xã hội. Đó là chương trình “Sách hóa nông thôn” của sáng lập viên (và trực tiếp điều hành) Nguyễn Quang Thạch. Đây là “thư viện của người dân” với các mô hình: tủ sách dòng họ, tủ sách phụ huynh, tủ sách giáo xứ. Bắt đầu từ năm 2007, cho đến nay anh Thạch đã vận động được các cá nhân, tổ chức chung tay đóng góp (dưới nhiều hình thức) và đã xây dựng được hơn 160 tủ sách ở 21 tỉnh trên cả nước. Người sáng lập viên này đã chấp nhận hy sinh cá nhân, nghỉ việc lương cao để dành toàn bộ thời gian, công sức vào công việc thiện nguyện này. Anh và những người chung tay đóng góp mang sách, mang tri thức về tận vùng quê để khai sáng văn hóa cho nhân dân và học trò xứng đáng là những người CHIẾN SỸ.

So với các khu vực khác, khu vực miền núi ở nước ta còn rất nghèo. Với tinh thần “lá lành đùm lá rách”, bằng nguồn kinh phí quyên góp từ nhân dân hay các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước… Các nhóm “No-U”“Cơm có Thịt”“Vì ta cần nhau”… đã lên tận vùng biên xa xôi như Háng Đồng (Sơn La), Suối Giàng (Yên Bái), và các trường ở Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Hà Giang… để hỗ trợ trẻ em vùng cao như xây trường, ủng hộ dụng cụ học tập, áo rét, chăn ấm, sửa chữa trường, lớp học…

Tất cả những con người có tấm lòng cao cả này là những CHIẾN SỸ. 

Những năm đầu thế kỷ XXI này, xã hội Việt Nam xuống cấp về mọi mặt và chưa lúc nào đất nước trong thời kỳ “nước sôi lửa bỏng” như ngày hôm nay. Có lẽ một bức tranh xã hội, một dòng lịch sử khái quát nhất về chính quyền và đất nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của đảng đã được nhà văn Phạm Đình Trọng, người chiến sỹ từ khói lửa chiến tranh năm xưa - người chiến sỹ cầm bút hôm nay khắc họa là tiêu biểu hơn cả. Chúng ta đọc để nghiền ngẫm, để chiêm nghiệm “đúng, sai”, để trả lời cho rất nhiều câu hỏi “VÌ SAO” tồn tại suốt hơn nửa thập kỷ qua, để…

Sau đây là những con chữ rất nóng của ông, cũng hiện ra các cặp phạm trù “được-mất”, “tốt-xấu”, “lưu manh-lương thiện”,“nguyên nhân-kết quả”,… để ông lý giải việc xuống cấp về mọi mặt của xã hội Việt Nam hôm nay là từ những “sai lầm lên tiếp trong quá khứ, tham nhũng không có điểm dừng trong hiện tại của đảng đã đưa dân tộc Việt Nam đi từ thảm họa này đến thảm họa khác:

Thảm họa cải cách ruộng đất đánh sập từ gốc rễ đạo lí Việt Nam, đánh tan tác văn hóa làng xã tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam.

Thảm họa Nhân Văn Giai Phẩm, thảm họa ngụy tạo ra vụ Xét lại chống đảng đã giam cầm, đầy ải, giết dần giết mòn những tài năng, tinh hoa nhất của dân tộc Việt Nam.

Thảm họa cải tạo tư sản ở miền Bắc sau năm 1954, cải tạo tư sản ở miền Nam sau năm 1975 tước đoạt quyền làm chủ của những chủ tư sản biết tổ chức sản xuất kinh doanh tạo ra việc làm cho người lao động, tạo ra của cải cho xã hội. 

Thảm họa tập trung cải tạo thực chất là tù đày lực lương ưu tú nhất của xã hội miền Nam cũng là tài sản con người của dân tộc Việt Nam, đẩy một nửa dân tộc Việt Nam ra khỏi vòng tay Mẹ hiền Tổ Quốc Việt Nam. Từ đó dẫn đến thảm họa thuyền nhân vùi xác hơn nửa triệu người dân Việt Nam dưới đáy biển. 

Thảm họa mất đất mất biển. Những mảnh đất mang hồn thiêng tổ tiên người Việt Nam, thấm đẫm máu nhiều thế hệ người Việt Nam, những tên đất chói lọi trong lịch sử Việt Nam đã bị Nhà nước Cộng sản Việt Nam cắt sang đất Tàu Cộng!

Thảm họa khai thác bô xít Tây Nguyên tàn phá môi trường, tàn phá văn hóa Tây Nguyên, làm chảy máu lâu dài nền kinh tế đất nước. Dự án khai thác bô xít Tây Nguyên liên tục ngốn nguồn vốn lớn hàng chục ngàn tỉ, hàng trăm ngàn tỉ đồng của nền kinh tế đất nước nhưng không làm ra một đồng tiền lãi, không bao giờ có lãi ở thời hiện tại!

Thảm họa Vinashin, Vinalines làm thất thoát hàng trăm ngàn tỉ đồng vốn ngân sách Nhà nước, tạo ra đổ vỡ dây chuyền làm cho hàng trăm ngàn doanh nghiệp phá sản, đẩy nền kinh tế đất nước vào khủng hoảng kéo dài, không thể cất mình lên nổi.

Thảm họa tụt lại sau thế giới, lạc lõng với thế giới. Năm 1975 Thái Lan phải ngước nhìn lên sự phát triển của kinh tế, xã hội miền Nam Việt Nam thì nay Thái Lan phải ngoái lại phía sau nhìn sự ì ạch của kinh tế xã hội Việt Nam vì Thái Lan đã vượt xa Việt Nam vài chục năm rồi và càng ngày Thái Lan càng bỏ xa Việt Nam.

Thảm họa trách nhiệm. Ở các nước dân chủ, bằng lá phiếu và bằng tự do ngôn luận, tự do báo chí, người dân thực sự có vai trò quyết định đến việc chấp chính của đảng cầm quyền và người cầm quyền. Chỉ một đổ vỡ nhỏ trong đời sống xã hội hoặc đời sống kinh tế đất nước, người cầm quyền phải đứng ra nhận trách nhiệm bằng việc từ chức, đảng cầm quyền cũng mất quyền lãnh đạo. Ở ta những thảm họa lớn gây chết chóc hàng trăm ngàn người dân như thảm họa cải cách ruộng đất, giết chết cả nền văn học nghệ thuật như thảm họa Nhân Văn Giai Phẩm, làm đình đốn cả nền kinh tế như thảm họa Vinashin nhưng những người cầm quyền không ai chịu trách nhiệm, không ai rời vị trí quyền lực, cùng lắm là luân chuyển từ vị trí này sang vị trí khác như sau thảm họa cải cách ruộng đất. Đảng độc quyền thì cứ bình thản cầm quyền. Người yếu kém và có tội cứ thản nhiên nắm quyền. Thảm họa cứ tiếp diễn và lan rộng ra cả xã hội. Xã hội Việt Nam hôm nay thực sự là thảm họa đối với dân tộc Việt Nam văn hiến”.

Chúng ta, mỗi người sau khi “ngắm nhìn” cái bức tranh trên đây, phỏng có nghĩ gì??? 

Trước chúng ta đã có nhiều người lên tiếng và bị vùi dập, bị gây khó dễ trong cuộc sống, thậm chí bị trừng trị, mặc dù họ là những đảng viên quyền chức của chính phủ như Kim Ngọc, Nguyễn Hộ, Trần Độ, Nguyễn Kiến Giang, Hoàng Minh Chính, Trần Xuân Bách… hay những tri thức, những văn nghệ sỹ: Phan Đình Diệu, Lữ Phương, Dương Thu Hương, Bùi Minh Quốc, Hà Sỹ Phu, Tiêu Dao Bảo Cự, Mai Thái Lĩnh… Tất cả họ là lớp CHIẾN SỸ đầu tiên đi tiên phong trên mặt trận đấu tranh dân chủ cho đất nước.

Tiếp nối truyền thống ấy là hàng trăm, hàng nghìn những tên tuổi khác, đó là những con người của “Kiến nghị về dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên” (2010), “Kiến nghị trả tự do cho công dân Cù Huy Hà Vũ” (2011), “Kiến nghị về việc bảo vệ và phát triển đất nước”(2011), “Thư ngỏ gửi các nhà lãnh đạo Việt Nam về hiểm họa ngoại bang và sức mạnh dân tộc” (của 36 nhân sỹ trí thức Việt Kiều, 2011), “Thư gửi chủ tịch nước Trương Tấn Sang - về công dân Bùi Thị Minh Hằng” (2011), “Tuyên bố về vụ cưỡng chế giải tỏa đất đai Văn Giang bằng vũ lực” (2012), “Thư khẩn gửi chủ tịch nước về vụ bắt Phương Uyên” (2012), “Lời kêu gọi thực thi quyền con người theo hiến pháp và pháp luật tại Việt Nam” (2012), “Kiến nghị 72” (kiến nghị về sửa đổi hiến pháp, 2013), “Thư khẩn gửi chủ tịch nước và chính phủ Việt Nam về việc giải quyết tuyệt thực của blogger Điếu Cày” ( 2013), “Tuyên bố công dân tự do” (2013), “Tuyên bố 258” (2013) , “Tuyên bố nghị định 72” (2013...

Các bản Kiến nghị, Tuyên bố, Thư ngỏ, Lời kêu gọi… đã đại diện tiếng nói trung thực, can đảm của giới trí thức và nhân dân Việt Nam, nhấn mạnh vào nhu cầu đổi mới hệ thống chính trị, đòi tôn trọng các quyền tự do dân chủ của nhân dân, yêu cầu chính quyền thượng tôn pháp luật, bãi bỏ điều 4 Hiến pháp, bãi bỏ các điều 88, 79, 258 Bộ luật hình sự, thực thi quyền con người theo các công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tôn trọng hình thức đấu tranh ôn hòa của các tổ chức quần chúng nhân dân trước thế lực bành trướng Trung Cộng, bảo vệ ngư dân, bảo vệ tổ quốc. Tất cả những con ngưới ấy họ là những CHIẾN SỸ.

Những người CHIẾN SỸ hôm nay không chỉ thể hiện trách nhiệm bằng lời nói, bằng bài viết, bằng chữ ký… mà còn bằng hành động. Đó là hàng chục cuộc xuống đường ôn hòa thể hiện tình yêu tổ quốc, đó là những con người đấu tranh đòi giới chủ phải tôn trọng người lao động, đó là những tri thức dấn thân. Thế nhưng nhiều người trong số họ hiện đang bị cầm tù. Thân thể các CHIẾN SỸ ở trong lao, nhưng tên tuổi họ rực sáng. Đó là : Trần Huỳnh Duy Thức, Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cày- Nguyễn Văn Hải, Lê Quốc Quân, Tạ Phong Tần, Việt Khang, Trần Vũ Anh Bình, Đinh Nguyên Kha, Đỗ Thị Minh Hạnh, Đoàn Huy Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đinh Nhật Uy,Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào… chưa kể những chiến sỹ đã chấp hành xong án phạt nay lại tiếp tục con đường tranh đấu: Phạm Hồng Sơn, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài, Lê Thăng Long, Lê Công Định…và gần đây nhất là người chiến sỹ trẻ Nguyễn Phương Uyên của phiên tòa xử phúc thẩm 16/8/2013 tại Long An. Người “chiến sỹ” Phương Uyên đứng trước tòa thân cô, thế cô, không có người thân, không có luật sư, chỉ có đầy “quần chúng tự phát”, an ninh mật vụ vây trong, vây ngoài tòa án, vậy mà em dõng dạc từng lời, đầy bản lĩnh:“Tôi không cần giảm án, tôi chỉ cần tòa xử đúng người đúng tội. Tôi cho rằng chống ĐCS không phải là chống phá đất nước, dân tộc. Các ông đừng có đánh đồng ”.

Tôi chỉ mong dân tộc ta có thêm nhiều CHIẾN SỸ trong thời bình như hình ảnh người con gái tuổi 20 này. Những người CHIẾN SỸ biết mình muốn gì và dân tộc mình cần gì… Tôi nhớ có câu nói khá nổi tiếng: “Thành công là một cuộc hành trình chứ không phải chỉ là đích đến”. Hành động thường quan trọng hơn kết quả là vậy (bởi nếu không có hành động thì làm sao có kết quả?). Tác giả của câu nói trên còn khuyên: “Enjoy the journey!” Hành trình dân chủ tuy nhiều chông gai, hiểm nguy (và đầy vật cản trên con đường ấy), nhưng tôi vẫn tin những “chiến sỹ” đã lựa chọn con đường này họ có cách vui hưởng hành trình của mình, bởi họ có niềm tin: “Nước nhà được độc lập mà người dân không được hưởng tự do thì độc lập chẳng có nghĩa lý gì”, chỉ có con đường dân chủ hóa đất nước mới mong có được Tự Do cho nhân dân.

Sài Gòn 8/2013


Tác giả gửi trực tiếp cho BVN

Người Việt phải đuổi kịp dân Campuchia


Ngô Nhân Dụng (Người Việt) - Thua Ðài Loan, Ðại Hàn, Phi Luật Tân đã xấu hổ. Nay thấy mình thua cả dân Miến Ðiện, dân Campuchia, chắc người Việt phải thấy tủi nhục. Nhất là những người biết suy nghĩ, có học, và dám nói. Một người 45 tuổi đảng lên tiếng kêu gọi các đảng viên bỏ đảng Cộng sản để lập đảng mới, cũng nêu trường hợp Camphuchia ra làm thí dụ, cho thấy người ta đã tiến bộ hơn mình. Sau cú sốc Miến Ðiện, cú sốc Campuchia sẽ giúp nhiều đảng viên cộng sản Việt Nam tỉnh ngộ hơn...

*

Từ ba bốn chục năm nay dân Việt Nam đã biết mình thua kém dân các nước Nam Hàn, Ðài Loan, Thái Lan. Biết như vậy cũng thấy tủi, nhưng còn có thể đổ tại số mạng không may, đành chịu. Nhưng khi nhìn thấy dân mình không may mắn bằng dân Miến Ðiện, thì nhiều người đã nóng mặt. 

Năm ngoái, nước Miến Ðiện bắt đầu tiến trình dân chủ hóa, đảng đối lập thắng gần hết các đơn vị bầu cử bổ túc; cả thế giới theo dõi với con mắt ngưỡng mộ. Còn dân mình, chẳng biết bao giờ mới được bầu người đại diện thật sự vào Quốc Hội!

Nay lại đến dân Campuchia. Trong cuộc bỏ phiếu tháng trước, đảng đối lập bỗng nhiên thắng lớn, đã thổi lên một luồng gió mới vào sinh hoạt chính trị. Lý do chính khiến chính quyền Hun Sen thất bại là vì dân đã chán ghét nạn tham nhũng, lạm quyền của đảng Nhân Dân của ông ta; cũng như tình trạng lệ thuộc Trung Cộng và Việt Cộng. Dân Campuchia đã có cơ hội bày tỏ thái độ bằng lá phiếu. Còn dân Việt, bao giờ mới có một cơ hội như thế?

Thua Ðài Loan, Ðại Hàn, Phi Luật Tân đã xấu hổ. Nay thấy mình thua cả dân Miến Ðiện, dân Campuchia, chắc người Việt phải thấy tủi nhục. Nhất là những người biết suy nghĩ, có học, và dám nói. Một người 45 tuổi đảng lên tiếng kêu gọi các đảng viên bỏ đảng Cộng sản để lập đảng mới, cũng nêu trường hợp Camphuchia ra làm thí dụ, cho thấy người ta đã tiến bộ hơn mình. Sau cú sốc Miến Ðiện, cú sốc Campuchia sẽ giúp nhiều đảng viên cộng sản Việt Nam tỉnh ngộ hơn.

Chắc hẳn Bộ Chính Trị đảng Cộng sản Việt Nam cũng lo lắng khi nhìn kết quả cuộc bầu cử ở Campuchia ngày 28 Tháng Bảy năm 2013. Trước hết, nó cho thấy thực lực của đảng cầm quyền không mạnh như chính họ vẫn nghĩ.

Ðảng Nhân Dân Campuchia có gần 6 triệu đảng viên, trong dân số dưới 15 triệu người. Nhưng kết quả kiểm phiếu chính thức cho thấy đảng chỉ được 3 triệu 200 ngàn lá phiếu; phe đối lập, Ðảng Cứu Quốc được 2 triệu 900 ngàn phiếu! Trước ngày dân đi bầu, chính quyền Hun Sen đã mua chuộc cử tri bằng cách tăng lương 40% cho các công chức cấp thấp, nâng lên bằng 80 đô la một tháng. Vậy mà gần một nửa số đảng viên Ðảng Nhân Dân đã bỏ phiếu cho các ứng cử viên đối lập! 

Cuộc bỏ phiếu được các cơ quan quốc tế theo dõi, giám sát; nhưng phe đối lập đang tố cáo nhiều vụ gian lận. Có những cử tri đến phòng phiếu khám phá ra mình đã bỏ phiếu rồi! Tức là đã có người đi bỏ phiếu thay cho mình. Có người thì thấy tên mình biến mất, không còn trên danh sách cử tri!

Ðiều thứ nhì khiến đảng Cộng sản Việt Nam run sợ, là lòng dân chống đối âm ỷ đã có dịp bùng lên. Trước đây, người ta vẫn tưởng dân Campuchia hiền lành, bảo sao nghe vậy. Nhưng khi có cơ hội, họ chứng tỏ họ có thể hiền lành thật nhưng không ngu.

Ðảng Cứu Quốc tập hợp Ðảng Sam Rainsy và Ðảng Nhân Quyền, mới lập năm 2007. Trước cuộc bầu cử này, hai đảng lần lượt có 26 và 3 đại biểu trong Quốc Hội. Nay dân đã bầu lên 55 đại biểu Ðảng Cứu Quốc; so với 68 ghế của Ðảng Nhân Dân, so với 90 ghế họ đã có. Dân chúng Phnom Penh đã đi biểu tình ngày 24 Tháng Tư đòi chính phủ tổ chức bầu cử tự do, dân chủ và công bằng. Cuộc biểu tình lớn nhất từ trước đến nay, 4,000 người tham dự, đòi thay đổi thành phần trong Ủy Ban Bầu Cử quốc gia.

Ngày 12 Tháng Bảy, Quốc Vương Sihamoni ký lệnh miễn tội cho ông Sam Rainsy theo đề nghị của Hun Sen, ngày 19 ông về nước, được hàng trăm ngàn người tiếp rước. Rainsy quốc tịch Pháp, nơi ông sống từ lâu trước khi về nước năm 1991, lên làm bộ trưởng tài chánh trong chính phủ liên hiệp. Năm 1994 ông mất chức, vì chống chính sách cho các công ty Trung Quốc và Việt Nam phá rừng, theo lời ông giải thích. Ông lập một đảng chính trị lấy tên Rainsy, rồi ông bị tuyên án 11 năm tù sau khi lưu vong bên Pháp từ năm 2009. Chắc Hun Sen tự tin quyền hành của mình đã vững chắc sau 28 năm làm thủ tướng, cho nên cứ cho Rainsy trở về mà không có quyền bầu cử và ứng cử. Nhưng dân Campuchia đã phản ứng khác. Giới thanh niên có học là thành phần dẫn đầu phong trào đòi thay đổi. Dùng Internet và điện thoại lưu động, họ cổ động cho đảng Cứu Quốc, thanh thế của đảng lan rộng nhờ mạng lưới tuyên truyền mới vượt qua mặt các báo, đài “lề phải” do đảng Nhân Dân kiểm soát. Vợ ông Rainsy là bà Tioulong Saumura cũng đắc cử. Khí thế phe đối lập lên cao đến nỗi nhiều người có tiền trong đảng cầm quyền đã lo sợ rút tiền ra khỏi ngân hàng, dân chúng nghe tin đồn bảo nhau đi rút theo; trong ngày bầu cử họ rút ra số tiền tổng cộng bằng 4 triệu đô la, gấp đôi số tiền rút bình thường.

Một chiêu bài tranh cử của đảng Cứu Quốc là chống Cộng sản Việt Nam, đã được dân Campuchia hoan nghênh. Hun Sen vốn là một cán bộ Khờ Me Ðỏ, sợ mất mạng trong các cuộc thanh trừng đã bỏ theo Việt Cộng, rồi được bọn Lê Ðức Thọ, Lê Ðức Anh đưa lên làm thủ tướng. Sau đó Việt Cộng tiếp tục thao túng chính trường Campuchia, cho đến năm 1997 Hun Sen sợ quá đã quay đầu sang nhờ Trung Cộng giúp. Sam Rainsy lợi dụng nỗi bất mãn của dân đối với Cộng sản Việt Nam cho nên dùng chiêu bài chống người Việt trong cuộc tranh cử. Trong ngày bỏ phiếu, có tin đồn rằng nhiều đoàn xe chở người Việt Nam qua biên giới đi bỏ phiếu cho đảng của Hun Sen! Trên các mạng Internet có những lời phản kháng: “Dân Khờ Me không được bỏ phiếu, dân 'Duồn' đi bỏ phiếu!” Người Campuchia gọi người Việt là “Duồn;” một tên gọi miệt thị cũng giống nhiều người Việt đang gọi người Trung Hoa là “Khựa” trước cảnh chính quyền Trung Cộng lấn áp cả nước Việt Nam. Sau cuộc bầu cử, trong lúc đảng Cứu Quốc còn đang thưa kiện về bàu cử gian lận thì lãnh tụ Sam Rainsy vẫn lên đường đi Boston dự đám cưới của cô con gái, cô Rachel Estée Sam lấy William Josiah Rubenstein, được một vị pháp sư Do Thái làm chủ lễ bằng ba thứ tiếng Hebrew, Pháp và Anh!

Cộng sản Việt Nam phải lo lắng vì phong trào bài Việt ở Camphuchia đang được khơi động; dân Việt sẽ coi đây là hậu quả do chủ trương bành trướng và thao túng nước Campuchia từ thời Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ gây ra. Nhưng Trung Cộng còn lo lắng hơn nữa. Sau cuộc bầu cử, nhật báo Wall Street Journal ở Mỹ nhận xét rằng, “Trung Quốc thua nặng nhất.”

Phong trào dân Campuchia ủng hộ đảng đối lập cho thấy tự ái dân tộc của họ đã bùng lên, sau khi thấy chính quyền Hun Sen hết bám lấy Việt Cộng lại dựa vào Trung Cộng. Người Hoa chiếm 5% trong dân số nhưng kiểm soát 80% nền kinh tế.

Tiếng Hoa là ngoại ngữ được học hàng thứ nhì sau tiếng Anh. Trong số khoảng 70 đài truyền hình có 50 đài nói tiếng Trung Hoa. Trung Cộng sử dụng đồng tiền để mua chuộc Hun Sen; hiện nay đứng hàng đầu về vốn đầu tư vào Camphuchia; cao hơn tổng số đầu tư của tất cả các nước khác. Riêng năm 2011, Bắc Kinh bỏ vào Campuchia 1 tỷ 200 triệu đô la, gấp 10 lần số đầu tư của tất cả các công ty Mỹ. Ai cũng biết chính quyền cộng sản ở nước nào cũng rút ruột các công trình đầu tư. Trung Cộng không bao giờ đặt vấn đề đó, trong khi các công ty Mỹ bị trói buộc bởi các đạo luật cấm hối lộ chính quyền các nước khác. Trung Cộng đang thi hành một dự án xây dựng một tuyến đường sắt, một bến cảng và một nhà máy luyện thép trị giá 11 tỷ đô la; khiến ai cũng nghĩ tới dự án xây dựng đập Myitsone tại Miến Ðiện, trị giá 3 tỷ 6, đã bị chính quyền Miến cắt ngang trước khi khởi đầu chương trình dân chủ hóa.

Người dân Camphuchia cũng nhìn thấy rõ chính quyền Hun Sen đang “bán nước.” Thế giới cũng nhìn thấy Trung Cộng đã “bỏ Campuchia vào túi!” Tháng Bảy năm ngoái, trong hội nghị ASEAN tại Phnom Penh, chính phủ Campuchia đóng vai chủ nhà đã ngăn cản khiến không đưa ra được một thông cáo chung, vì biết bản dự thảo nêu lên các hành động xâm lấn của Trung Cộng tại Biển Ðông. Có lúc ông tổng thư ký ASEAN đang bắt đầu nói đến vấn đề này, ngoại trưởng Campuchia đã ngăn lại, cắt ngang lời. Ðến Tháng Chín, Bắc Kinh loan báo cho Phnom Penh vay 500 triệu đô la với lãi suất nhẹ! Không biết các quan chức sẽ bỏ túi bao nhiêu trong số tiền này, nhưng dân cả nước sẽ mắc nợ! Lại còn nạn “bán rừng” cho các công ty Trung Quốc và Việt Nam nữa!

Dân Campuchia ghét Cộng sản Việt Nam nhất vì nạn tham nhũng ở xứ này đã được các cán bộ người Việt truyền nghề cho đàn em bản xứ. Mà bây giờ thì đám đàn em còn tham nhũng vượt chỉ tiêu! Người ta đồn “trong đám cưới con ông Hunsen đám thuộc hạ dâng tặng nhiều xe hơi đắt tiền đến mức số chìa khóa xe không thôi đã đầy mấy rổ!” Ðồng bào Việt Nam đang sinh sống ở Campuchia sẽ phải gánh chịu hậu quả!

Dân Việt Nam chỉ mong người Khmer không khơi dậy mối thù hận lâu đời với người Việt. Họ sẽ phải thấy các chính sách lấn áp của đảng Cộng sản Việt Nam không được dân Việt ủng hộ. Hơn nữa, người Việt Nam sẽ tranh đấu để được sống trong một xã hội tự do dân chủ, ít nhất cũng bằng dân Campuchia. Dù nền dân chủ ở nước láng giềng còn trong cảnh sơ sinh nhưng đã đầy hứa hẹn. Chính quyền Hun Sen sẽ phải giảm bớt tham nhũng và bớt lệ thuộc Trung Cộng khi bị phe đối lập trong quốc hội theo dõi và phê phán. Khi nào cả hai dân tộc cùng sống trong các chế độ dân chủ tự do thì mọi bất đồng sẽ được giải quyết trên căn bản bình đẳng.