Điếu Cày gửi lời chúc tết từ ngục tối



Đoạn ghi âm lời nhắn gửi và chúc tết của blogger Điếu Cày

Danlambao - Vào lúc 2 giờ 30 chiều ngày 22/1/2014, blogger Điếu Cày – Nguyễn Văn Hải đã gọi điện thoại cho con trai Nguyễn Trí Dũng để thăm hỏi gia đình và gửi lời chúc tết đến tất cả bạn bè gần xa.

Theo quy định của trại giam, mỗi người tù chỉ được gọi điện thoại về nhà với thời gian tối đa là 5 phút trong một tháng. Trong cuộc nói chuyện ngắn ngủi, ngoài việc hỏi thăm và dặn dò chuyện gia đình, blogger Điếu Cày cũng cập nhật một số thông tin trong tù như yêu cầu được chăm sóc y tế của anh không được phía trại giam trả lời.

Điếu Cày cho biết, anh đã gửi hai lá đơn kháng nghị đến Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân tối cao, tuy nhiên những lá đơn này chưa được phía trại giam chuyển ra ngoài. Vì vậy, anh dặn dò gia đình thực hiện việc gửi đơn kháng nghị ở bên ngoài.

Nhân dịp sắp bước sang năm mới, Điếu Cày gửi lời cảm ơn, chúc tết đến tất cả bạn bè gần xa, các tổ chức trong và ngoài nước luôn quan tâm, ủng hộ anh. 

Blogger Điếu Cày – Nguyễn Văn Hải năm nay 62 tuổi, chuẩn bị đón cái tết thứ 6 trong tù tại trại giam số 6 thuộc tỉnh Nghệ An, nơi cách xa gia đình 1500 km.

AI ĐÃ GÂY RA TỘI ÁC NÀY!!

Bởi còn đây nỗi đau Tết Mậu Thân!

Ts. Đặng Huy Văn (Danlambao) - Thật bất ngờ vì mấy ngày Tết Giáp Ngọ trên cả nước trời rất đẹp. Ngày nào cũng có nắng nhẹ, có ngày như hôm nay tại Hà Nội, trời nắng từ sáng đến chiều. Thời nay, Tết không còn là dịp để ăn nữa mà ở nhiều vùng, Tết là để đi chơi bà con bạn bè, đi thắp hương trên mộ những người đã khuất. Vì vậy hôm nay tại Huế, sau 46 năm Tết Mậu Thân 68, có lẽ nhiều bà má đã khóc các con mình, chồng mình bên những ngôi mộ tập thể! Nghĩ đến đây, tôi đã không cầm được nước mắt khi vừa xem xong bộ phim “Tết Mậu Thân 68” của đạo diễn Lê Phong Lan trên mạng. Trời ơi! Có lẽ trên thế giới không còn có nơi nào lại xem giết người là một “thắng lợi to lớn” như trong bộ phim của đạo diễn Lê Phong Lan đó! Đặc biệt, ở những đoạn thanh minh che dấu tội ác lại quá lộ liễu và vụng về!

Nhân tròn 46 năm Biến Cố Tết Mậu Thân, tôi có một bài khai bút như là một nén tâm nhang để thắp viếng oan hồn của bảy ngàn nạn nhân Huế đã bị chết một cách tức tưởi trong Tết Mậu Thân trước cuộc tấn công man rợ vào ngày Tết của VC!

Bởi còn đây nỗi đau Tết Mậu Thân!

(Kính viếng những oan hồn Tết Mậu Thân tại Huế)

Sáng hôm nay ngày mùng một đầu xuân
Nắng trải vàng dải đất hình chữ S
Trời đẹp thế mà lòng buồn da diết
Bởi còn đây nỗi đau Tết Mậu Thân!

Kìa Bãi Dâu nơi chôn sống xác dân
Của VC vào đêm mùng hai Tết
Cả xác mẹ ôm con còn chưa chết
Đều bị vùi trong những hố đào chung!

Là thành tích để phong tặng “anh hùng”
Đã lập công giết bảy ngàn dân Huế
Được chôn vội trong những mồ tập thể
Vài chục ngày vừa qua Tết Mậu Thân!

Có nhà thơ kiêm luôn cả sát nhân
Kiêm chỉ điểm giết thầy bên Gia Hội
Thơ ông viết từ trái tim nóng hổi
Vẫn còn tươi màu máu của người thân!

Có nhà văn xem giết người là lý tưởng
Giết thầy cô bầu bạn thuở sinh viên
Giết, giết nữa lấy thành tích khen thưởng
Lấy xác người xây hoạn lộ đi lên!

Vào cái đêm tàn sát tại Đá Mài
Bốn trăm người bị trói vào dây thép
VC chối họ hoàn toàn không biết
Nói rằng đây là do Mỹ ném bom!

Những ca từ của nhạc Trịnh Công Sơn
Đã đi vào trong trái tim nhân loại
Tội diệt chủng mang danh “người vĩ đại”
Ngàn năm sau còn truyền mãi sử xanh!

Ôi buồn sao tội ác đã rành rành!
Các nhân chứng nay vẫn còn sống đó
Mà chúng đổi trắng thay đen lịch sử
Còn làm phim dối trá để lưu danh!

Người dân kêu ma khắp nẻo đô thành
Dưới nền nhà vẫn còn mồ tập thể
Đêm mơ ngủ thấy hồn ma lên kể 
Thiếu áo quần, không tiền, đói quanh năm!

Thôi đủ rồi! “Thắng lợi Tết Mậu Thân”
Là “chiến thắng” dìm dân trong biển máu
Những hồn oan đang kêu gào con cháu
Mau đứng lên để giữ lấy non sông!

Khỏi giặc Tàu đang xâm lấn Biển Đông
Và chiếm giữ Hoàng Sa bất hợp pháp
Chúng nuôi béo Việt gian bằng tiền bạc
Để âm mưu xâm lược cả núi sông!

Thôi đủ rồi! Lừa dân gần thế kỷ
Nay hãy trao chính quyền lại cho dân
Lãnh đạo dân đâu phải là cai trị
Mà thương yêu, chia sẻ với nhân quần!

Thôi đủ rồi! Lũ buôn dân bán nước
Dù trong ray, có gần nửa triệu quân
Cũng không thể tàn sát dân như trước
Bởi nhân dân nay đã biết kết đoàn!

Nếu các người biết yêu dân thì sống
Còn giết dân, thì địa ngục đang chờ
Giết một triệu dân hãy còn hy vọng
Bởi chín mươi triệu còn đó thời cơ!

Để tiêu diệt lũ tham quyền cố vị
Áp bức dân và tham nhũng khắp nơi
Sẽ đến ngày dân vùng lên trừng trị
Trần Ích Tắc thoát sao được lưới trời?

Mùng 1 Tết Giáp Ngọ


QUÀ TẶNG XUÂN GIÁP NGỌ TRÊN TRANG TỄU



Tranh Ngựa đón mừng năm Giáp Ngọ của cháu Nguyễn Xuân Huy tặng bố mẹ.

Trang Tết Giáp Ngọ tặng bạn đọc:

NHONG NHONG NGỰA ÔNG ĐÃ VỀ - thơ Chu Hảo

SUY NGẪM ĐẦU XUÂN - Thơ Nguyễn Trọng Vĩnh 

Đào Tiến Thi: ĐÊM GIAO THỪA, NGHĨ VỀ CÁI CAO CẢ VÀ HY VỌNG MỘT CUỘC HÒA GIẢI DÂN TỘC

Bùi Công Tự: CHO ĐẤT NƯỚC MỘT MÙA XUÂN ĐÍCH THỰC

VĂN NGHỆ SỸ TRÍ THỨC CẢM NGHĨ VỀ VẬN MỆNH GIÁP NGỌ 2014

 

NGỰA TRONG ĐIÊU KHẮC DÂN GIAN

CON NGỰA GIÀ CỦA CHÚA TRỊNH - Truyện ngắn của Phùng Cung

Phùng Hồng Kổn: QUY TRÌNH LÀM TRANH ĐÔNG HỒ

HOÀI NIỆM TẾT - Tùy bút của Trần Ngọc Kha

ĐÂY ! HÀ NỘI NGÀN NĂM VĂN HIẾN ĐÓN XUÂN 

CHÙM THƠ - Mai Văn Lạng - Bùi Hoàng Tám - Trang Thanh Hiền 

Vũ Thư Hiên: SƯƠNG XUÂN VÀ HOA ĐÀO 

CHÙM THƠ XUÂN NGUYỄN ĐĂNG HƯNG, TRẦN LỆ KHÁNH

CHÙM THƠ XUÂN - Quốc Toản

CÁC BÀI VĂN CÚNG TRONG DỊP TẾT GIÁP NGỌ

Nguyễn Trung Thuần: THỬ TÌM HIỂU VỀ CHIẾC BÁNH CHƯNG VUÔNG

TRONG BÓNG NGÔI NHÀ XƯA - tùy bút Nguyễn Quang Thiều

THUNG DUNG THƯỞNG XUÂN VÀ CHUẨN BỊ SỐ TẾT GIÁP NGỌ

DÒNG SÔNG SÀI GÒN ĐÓN NHẬN VÀ ĐƯA ANH RA BIỂN ĐÔNG



Bạn Uyên Kha đã có mặt từ lúc làm lễ truy điệu vào sáng nay cũng như lúc hỏa thiêu và lúc đưa tro anh Lê Hiếu Đằng về với sông nước Sài Gòn để từ đó ra biển Đông.
Sau đây là những hình ảnh bạn Uyên Kha gởi đến.





CHÙM THƠ XUÂN NGUYỄN ĐĂNG HƯNG, TRẦN LỆ KHÁNH




KHAI BÚT NĂM MỚI

***
Mùa Xuân đang đến
Nguyễn Đăng Hưng 

Dù ai che khuất mùa Xuân
Hoa Xuân vẫn nở trong ngần sắc hương
Dù ai ngăn cách đời thường
Gió Xuân vẫn của ngàn phương thoảng về
Dù ai còn đắm cơn mê
Giấc Xuân đã tỉnh tràn trề ước mong
Dù ai còn nỡ đèo bòng
Nắng Xuân đã rọi sáng trong rạng ngoài
Dù ai vùi dập cánh mai
Tình Xuân mãi vẫn miệt mài sắc son
Dù ai toan tính nước non
Duyên Xuân mãi vẫn vuông tròn tình yêu
Dù ai giá lạnh bao chiều
Tuổi Xuân vẫn thắm chắt chiu nồng nàn
Mùa Xuân là của thế gian
Mùa Xuân đang đến ngập tràn tin vui

Sài Gòn Tết Giáp Ngọ

CẢM XUÂN GIÁP NGỌ - 2014

Trần Lệ Khánh

Mã đáo thành công sức ngựa thần
Giang sơn cường thịnh biếc màu Xuân
Thanh bình khúc nhạc mang tình nước
Khánh chúc lời thơ đượm ý dân
Ấm áp dương hồng nâng sức sống
Dạt dào bút thắm tỏa thơm vần
Vào Xuân Giáp Ngọ tam thiên kỷ
Mã đáo thành công sức ngựa thần!
             

EM YÊU CHIẾN SĨ BIÊN PHÒNG.
Trần Lệ Khánh

               Cánh én nghiêng báo tin xuân rộn rã
               Khắp không gian hương xuân tỏa ngạt ngào
               Em nhớ anh một nỗi nhớ nôn nao
               Người chiến sĩ nơi biên cương Tổ Quốc
              
               Năm tiếp năm anh giữ gìn đất nước
               Khung trời quê hương bóng dáng mẹ hiền
               Rặng dừa xanh tỏa bóng xuống dòng kênh
               Nương dâu xanh và kén tằm vàng óng
              
               Tiếng sáo diều vi vu trôi trong nắng
               Chiếc nôi đưa trầm bổng ngọt lời ru
               Làn hương say của lòng đất âm u
               Tiếng hót chim rừng-mặn mòi biển cả!..
               Ai hỏi vì sao em yêu chiến sĩ?.
               Có gì đâu điều giản dị chân phương
               Rất bình thường mà cũng rất phi thường
               Vì sông núi anh hy sinh chẳng quản!
               Mùa xuân biên phòng hoa ban nở trắng
               Anh đẹp làm sao đứng giữa đất trời
               Súng chắc trong tay ánh mắt ngời ngời
               Giữ Tổ Quốc đẹp mùa xuân vĩnh cửu.
______________

*Xin chờ thơ Khai bút của Bác Phan Liên Khê, Chân Không cư sĩ, và chư vị thi hữu. 

Bốn Mươi Mốt Năm Không Quên Kissinger Bán Đứng VNCH Cho Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế


NguoiLinhVNCH

Mấy năm trước tiến sĩ Henry Kissinger, nguyên phụ tá an ninh quốc gia tòa Bạch Cung thời Tổng Thống Nixon, đã từ chối chức Chủ Tịch Uỷ Ban Điều Tra vụ khủng bố làm sụp đổ hai tòa cao ốc thương mại tại Nữu Ước ngày 9-11-2001. 

Nguyên nhân có sự trục trặc trên vì đương sự đã bị nhiều người tại nước Mỹ cũng như khắp thế giới, từng là nạn nhân do Hoa Kỳ phản bội, chống đối kịch liệt. Thậm chí nhiều tổ chức nhân quyền còn đòi lôi cổ tên đại bịp lừa đảo chính trị gốc Do Thái này ra trước Tòa Án Quốc Tế, để đền tội đã làm cho nhiều chục triệu người Trung Đông và Đông Dương, tan nhà mất nước. Cuối cùng năm 2010, Kissinger xác nhận là mình đã bán đứng VNCH cho Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế.

Theo các sử gia cận đại, thì cái hệ lụy bi thảm mà Hoa Kỳ hứng chịu hôm nay khi phải đối đầu với Hồi giáo cực đoan, Iraq, Iran, Trung Cộng, Bắc Hàn.. cũng như sự phản bội trắng trợn của các đồng minh trung thành lâu đời như Pháp, Đức, Arab Saudi, Thổ nhỉ Kỳ, Nam Hàn, Phi luật Tân, Nam Dương.. phần lớn đều do chính sách sai lầm có chủ ý của Kissinger khi nắm quyền, hoàn toàn chỉ nghĩ tới Do Thái và bọn siêu quyền lực tư bản, thời nào cũng nắm quyền sinh sát nhân loại.

Trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai 1955-1975, cộng sản quốc tế Hà Nội đã thu được nhiều thắng lợi qua hai hiệp định Genève 1954 và Ba Lê 1973. Cả hai đều giả mạo do ngoại bang dàn dựng trước cái gọi là tố chức Liên Hiệp Quốc, bất xứng vô thực. Đây mới chính là một trong những yếu tố then chốt, đã dẫn tới thảm kịch VN mà theo các sử gia đều quy cho Kissinger, tội bán đứng VNCH cho cộng sản Bắc Việt bằng đủ mọi cách dàn dựng lên một hiệp định hòa bình giả mạo, được ký ngày 27-1-1973 tại Ba Lê. Tất cả vở hài kịch trên từ đầu tới cuối chỉ do Hoa Thịnh Đốn và Hà Nội tự soạn tự diễn mà không hề đếm xỉa tới dân tộc VN.

Sau năm 1975, tất cả âm mưu đen tối trên lần lượt bị lột trần ra ánh sáng, qua các tác phẩm do chính những nhân vật có liên quan kể lại trong “Bí mật Dinh Độc Lập của tiến sĩ Nguyễn tiến Hưng”, “ Những lá thư của Tổng Thống Nixon gởi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu”, “Tài liệu của Giáo Sư Stephen Young, chuyên gia tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ”, “Hồ sơ mật của Hoàng Đức Nhã, cựu Tổng trưởng Dân Vận Chiêu Hồi kiêm Bí Thư của TT.Thiệu” và mới nhất là tác phẩm “ No peace no honor của Sử gia Larry Berman”.Tất cả đều đồng thanh gay gắt lên án và luận tội Nixon-Kissinger, đã lường gạt cũng như phản bội dân chúng Hoa Kỳ và VNCH.

Tuy nhiên xác thực hơn hết cũng vẫn là những lời tuyên bố huênh hoang sau năm 1975 của Lê Đức Thọ, Nguyễn Thị Bình, Lưu Văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ.. và chính miệng Kissinger qua những hồi ký đã xuất bản như Năm tháng ở Bạch Cung (1979), Niên đại sóng gió (1982) thế nhưng mai mỉa nhất vẫn là Bí Lục Kissinger (The Kissinger Transcripts), trong đó ngoài Đông Dương bị bán đứng, cả Liên Xô cũng là nạn nhân bi thảm trong canh bạc thời chiến tranh lạnh giữa Mỹ-Trung-Nga.

Ngày nay qua sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản, mặt thật của Bắc Việt đang đô hộ VN và cái liêm sỉ của đống núi sách vở trong và ngoài nước viết về cuộc chiến VN, phần lớn nhắm mắt theo tài liệu tuyên truyền của Việt Cộng có sẵn khắp các thư viện quốc tế. Bao nhiêu đó cũng đủ cho ta thẩm định về tính chất phiến diện thiếu công bằng của một số trí thức có bằng cấp cao nhưng cạn kiệt hồn nước và tình người.

Cũng từ đó để chúng ta, những người dân đen đến lúc phải tỉnh mộng, chấm dứt việc giao phó trách nhiệm đối với non nước và sinh mệnh mình cho bất cứ ai không xứng đáng và tín nhiệm, dù họ đang nhân danh bất cứ một thứ gì. Càng nhớ càng thêm thê thảm tủi nhục cho chính bản thân mình, một dân tộc nhược tiểu, luôn bị bán đứng và dầy vò trong suốt thế kỷ, qua hai cái vỏ quốc gia rồi cộng sản. Bao chục năm rồi nhưng không bao giờ quên được lời tuyên bố chát chua máu lệ của ông Trần Kim Phượng, đại sứ VNCH tại Hoa Thịnh Đốn ngay lúc xe tăng Bắc Việt tiến vào Dinh Độc Lập trưa 30-4-1975: “Làm đồng minh với Mỹ chỉ có chết, tốt hơn nên làm bạn với cộng sản, ít ra còn được che chở và giúp đỡ”. Đây là lời cảnh tỉnh tha thiết nhất cho những ai còn muốn nhờ ngoại bang để quang phục đất nước.

1 - NGƯỜI MỸ LÀM GÌ TẠI VNCH ?

Tuy chiến tranh đã kết thúc từ lâu và cộng sản Bắc Việt ngay từ ngày 1-5-1975 qua Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng... đã công khai xác nhận XÂM LƯỢC MIỀN NAM, còn Mặt Trận Giải Phóng chỉ là một phần Đảng Bộ Trung Ương nối dài, một thứ công cụ bịp để che mặt và đánh lừa bọn trí thức ngây thơ da vàng da trắng mà thôi.

Thế nhưng đến nay vẫn còn nhiều người chưa chịu trả lại công lý cho người VN mỗi khi đề cập hay nhắc tới cuộc chiến đó. Thật ra đây cũng chỉ là một cách chạy tội của những người trước kia tay lở nhúng vào tội ác, hoặc cố ý hay vô tình khi đứng về phía cộng sản, thân thiện, giúp đỡ chúng một cách mù quáng, không cần biết tới lẽ phải và lương tâm. Do trên họ cứ tự mình tùy tiện áp đặt cho cuộc chiến đó, nhiều cái tên nghe qua thật khôi hài, cũng may đến nay không còn được mấy ai chấp nhận. Tóm lại, dù có gọi là cuộc chiến ủy nhiệm, nội chiến hay là chiến tranh giải phóng dân tộc hoặc gì gì chăng nữa, thì đó cũng là một cuộc chiến xâm lược, do cộng sản quốc tế chủ động, nhằm nhuộm đỏ Đông Dương và Đông Nam Á. Cộng sản Hà Nội hay VC miền Nam chỉ là kẻ thừa hành sứ mạng quốc tế trên, đã khiến dân chúng VNCH trở thành nạn nhân, phải đem máu xương ra chống lại để sống còn.

Từ đầu thế kỷ XX tới nay, Hoa Kỳ vẫn là một quốc gia vô địch. Chính Họ đã giúp đồng minh thắng phe trục qua hai cuộc thế chiến. Trong chiến tranh lạnh giữa khối tự do và cộng sản, Hoa Kỳ đã chiến thắng Liên Xô vẻ vang, giựt sập bức tường Bá Linh, giải thề Xô Viết, giải phóng Đông Âu và nhiều quốc gia cộng sản khác trong đó có Đông Đức, Nga La Tư vĩnh viễn thoát khỏi gông cùm đỏ trong mấy thập niên qua. Mới đây quân Mỹ như sấm sét, trong vòng không đầy một tháng, bình định xong A Phú Hãn và Iraq là hai vùng đất chết được coi như bất khả xâm phạm của thế giới Ả Rập.

Nhờ những chiến công trời biển này, ít ra hiện tại cũng còn làm Trung Cộng vỡ mật khi muốn trở thành trùm thế giới, bá chủ Á Châu và vua biển Thái Bình Dương. Nhưng tại VNCH thuở đó, Hoa Kỳ lại bị sa lầy dù thực tế tự chạy khi đã đạt được ba mục đích chiến lược quốc sách: Tạo được sự mâu thuẫn chia rẽ giữa Liên Xô-Trung Cộng, thành công trên chiến trường VN về sự thử thách vũ khí và quân đội với khối cộng sản quốc tế qua bộ đôi Bắc việt và trên hết là ngăn chặn được Trung Cộng không cho tràn xuống Đông Nam Á ít nhất là lúc đó. Tóm lại người Mỹ tới VN không phải để chiến đấu thật sự như họ đã làm tại hai cuộc thế chiến hay mới đây ở A Phú Hãn và Iraq, mà đến để nướng quân dụ địch. Tất cả những cái được gọi là Rules of Engagement hay là luật chiến đấu dành cho quân đội Hoa Kỳ tại VN và Nam Hàn. Tài liệu này được giải mật một phần từ năm 1985 bởi Congressional record, nhờ đó ta mới biết được lý do tại sao quân đội Hoa Kỳ, Đồng Minh và QLVNCH bị Hoa Thịnh Đốn trói chặt tay khi đang chiến đấu. Bởi vậy cứ không tập, đổ bom liên tục xuống núi, xuống biển nên Hà Nội, Hải Phòng đâu có hề hấn gì củng như không thấy có bất cứ một cán bộ nào kể cả cán thấp tại xã huyện bị thương vong.

Đây là một trò chơi mèo bắt chuột mà rõ ràng nhất là đợt Mỹ oanh tạc Bắc Việt lần cuối cùng, bằng B52 liên tiếp, khủng khiếp suốt 12 ngày đêm và chỉ cần thêm MỘT NGÀY là toàn bộ chóp bu Hà Nội trốn dưới hầm thép ra đầu hàng, giúp dân chúng VN ngày nay thoát được ách nô lệ cộng sản. Thế nhưng Hoa Kỳ đã ngưng và Bắc Việt đã ngoan ngoãn hối hả ngồi vào bàn nghị sự. Rồi những ngày cuối cùng của tháng tư đen 1975 miền Nam sắp mất, trong lúc Hoa Kỳ với một lực lượng hải quân hùng hậu có đầy máy bay và bom đạn, kể luôn kho bom nguyên tử tới mấy trăm ngàn trái, nếu muốn dù có Trung Cộng và Liên Sô can thiệp, vẫn thừa sức đánh tan bộ đội Bắc Việt trong chớp nhoáng để cứu QLVNCH. Mặt trận Xuân Lộc tháng 4-1975 là một thí dụ điển hình, chỉ cần thêm vài chục trái bom tiểu nguyên tử, tình hình chiến sự đã thay đổi nhưng Mỹ cho bom mà không viện trợ ngòi nổ, ba trái bỏ tại ngã ba Dầu Giây chỉ để mua thêm thời gian giúp người Mỹ chạy được an toàn thế thôi.

Tóm lại, họ không bao giờ làm vậy và còn được lệnh di chuyển hết các mẫu hạm khỏi bờ Đông hải. Đó là chiến thuật để thua vừa nuôi dưỡng chiến tranh sắp tới nên không thể bắt Hà Nội tan rã. Thế giới ghét cái trò lừa bịp của Hoa Kỳ, nên mặc dù đã nhìn rõ sự láo dóc tàn khốc của Việt cộng nhưng cứ giả vờ nhắm mắt hoan hô cổ võ trò hề trên, làm hại cho một số người VN nhẹ dạ tưởng thiệt, lại cứ theo giặc, tiếp tay hãm hại đồng bào mình trong lúc khốn cùng qua màn cổ võ “nối vòng tay lớn, hòa hợp hòa giải..”

Cũng vì vậy nên dù chiến tranh đã chấm dứt từ xa lắc nhưng VC chứng nào tật ấy, một mình một chợ, độc quyền thao túng lịch sử, dành làm chủ đất nước, bịa đặt những huyền thoại vu vơ để làm dao động các thế hệ mới lớn, mục đích chạy trốn tội ác thiên cổ đã gây ra trong mấy chục năm máu lệ hận trường. Riêng Hoa Kỳ trong màn kịch giả bộ thua đau, đã không ngớt biện minh để tìm cách thoát ra cái hội chứng Vietnam syndrom, trong đó chính họ là kẻ phản bội và thủ phạm tấn tuồng trên là Nixon-Kissinger. Một điều tàn nhẫn khác của người Mỹ, đó là sự vu cáo trắng trợn, đổ tội cho đồng minh hèn nhát không chịu chiến đấu nên phải mất nước. Thật sự trong giờ 25, nếu không có sự chiến đấu can trường của QLVNCH trên khắp các chiến địa, liệu một số người Mỹ, kể luôn ông Đại sứ có còn mạng thoát được Sài Gòn ? như vụ Ba Tư bắt con tin Mỹ năm 1983.

Ngày nay nhờ tài liệu mật từ văn khố của Liên Xô cũ cũng như tại thư viện chiến tranh Hoa Kỳ ở Texas gọi tắt là ISAW, đã chấm dứt các huyền thoại dỏm của VC trong mấy chục năm qua, tốn công dàn dựng bóp méo và đưa ra ánh sáng rằng những xáo trộn chính trị tại VNCH, dù do ai cũng chỉ là cớ để Bắc Việt cưỡng chiếm miền Nam.

Ý đồ trên, theo J.Race trong The lost revolution, đã manh nha từ năm 1958 khi Hà Nội ra lệnh khui lại các hầm vũ khí được chôn giấu tại miền Nam trước khi tập kết, để trang bị cho cán binh cơ sở nằm vùng. Cũng trong năm này, Lê Duẩn theo lệnh Hồ đã lén lút vào Nam lượng giá tình hình và trở về bắc họp Trung ương đảng lần thứ 15, nghị quyết lập đảng bộ miền Nam, tức là VC hay mặt trận giải phóng, tấn công VNCH bằng vũ trang. Chiến tranh được phát động chính thức bằng hai cuộc nổi loạn gọi là đồng khởi nhưng đã bị dập tắt ngay tại Trà Bồng (Quảng Ngãi) ngày 28-8-1959 và Bến Tre ngày 17-1-1960. Chính Thủ Tướng Nga Nikita Khrushchev đã phất ngọn cờ tiến quân ngày 6-1-1961 để mở màn cuộc chiến VN sau khi vở tuồng mặt trận trình diễn ra mắt tại một khu rừng già kế biên giới Việt Miên trong liên ranh hai tỉnh Hậu Nghĩa-Tây Ninh cuối tháng 12-1960 với nhân sự nòng cốt gồm hơn 25.000 cán binh từ bắc hồi kết. Tháng 5-1962, Bộ Trưởng quốc phòng Hoa Kỳ thời Tông thống J.Kennedy là McNamara thăm viếng VNCH, cũng để mở màn cái thảm kịch chiến tranh phải thua, khiến hơn 60.000 quân nhân các cấp Hoa Kỳ, Úc,Tân Tây Lan, Nam Hàn, Phi, Thái và mấy triệu người VN cả hai miền nam bắc phải chết oan khiên trong bom đạn tàn bạo của một cuộc chiến bẩn thỉu có một không hai trong dòng sử nhân loại.

Ngày 1-11-1963 Hoa Kỳ đạo diễn biến cố lật đổ nhà Ngô, một mặt tạo sự vô chính phủ tại miền nam trong ba năm xáo trộn 1963-1967, vừa có cớ đem quân vào giúp đánh VC ổn định chính trị nhưng trên hết là thực hiện cái chiến lược, hy sinh con chốt VNCH để bắt nhốt con cọp ngủ Trung Cộng, rảnh tay tiêu diệt Liên Xô nhưng thả Hà Nội để lại tiếp tục làm con chốt thí mạng với Tàu đỏ khi cần. Chiến tranh cứ thế leo thang, tại miền nam Mỹ thêm quân, giội bom oanh tạc, thì miền bắc càng nhận được thêm nhiều quân viện gạo vải từ khối cộng sản quốc tế, cũng như sự hiện diện của mấy trăm ngàn đồng chí Trung Cộng, Bắc Hàn, Cu Ba, Đông Đức.. do Hồ lãnh tụ mời tới tham chiến, đóng đầy từ vỹ tuyến 20 ở Thanh Hóa cho tới biên giới Việt Hoa.

Ngày 4-9-1967 mở đầu nền đệ nhị cộng hòa cho tới ngày tàn cuộc 30-4-1975. Cũng từ đó QLVNCH trên khắp chiến trường trong nước cũng như tại Kampuchia và Hạ Lào, đã chứng tỏ cho thế giới là một đạo quân thiện chiến và có kỷ cương nhất vùng Đông Nam Á, qua các chiến thắng lừng lẫy trong Tết Mậu Thân 1968, vượt biên đánh thẳng vào căn cứ địa của R tại Kampuchia năm 1970, Hạ Lào năm 1971, mùa hè đỏ lửa 1972, Hoàng Sa tháng 1-1974.. tạo nên một niềm tin tất thắng trong lòng quân nhân các cấp, nhất là những sĩ quan chỉ huy trẻ tuổi trung cấp và tuyệt đại quân sĩ thanh niên nam nữ yêu nước dưới quyền.

Thế nhưng giữa lúc chiến thắng gần kề thì cũng là lúc Kissinger công khai thái độ bán đứng đồng minh qua cái hiệp định quái đản ngày 27-1-1973. Thì ra tất cả đều là xảo thuật, đóng kịch từ cuộc họp thượng đỉnh Midway ngày 8-6-1969 giữa Nixon-Nguyễn Văn Thiệu với cam kết bảo vệ và quân viện cho VNCH.. chỉ là lời hứa cuội trên văn bản. Thật sự Kissinger đã đi đêm với cộng sản Hà Nội từ khuya, để rút quân, lấy tù binh về nước.

Để đạt được trò bịp trên, Hoa Kỳ dùng thủ đoạn chèn ép chính phủ VNCH bằng cái thòng lọng VIỆN TRỢ, chụp mũ làm mất chính nghĩa quốc gia của người miền nam, qua truyền thông truyền hình và hăm dọa ám sát thủ tiêu lãnh đạo nếu không chịu ký nhận cái hiệp định phi lý vô nhân đạo, mà VC đã đem liệng ngay vào thùng rác sau đó.

Cái hài hước của lịch sử mà ai cũng biết được, là mặt thật nhưng vẫn phải cắn răng nuốt lệ thi hành. Và cũng kể từ đó, người Mỹ hân hoan rút hết về nước, trước sự thắng cử vinh quang thêm một nhiệm kỳ của tổng thống Nixon. Bộ đội Bắc Việt thế chân Hoa Kỳ, công khai ở lại lãnh thổ độc lập tự do của người miền Nam theo tinh thần hiệp định hai nước, hai chính thể ký năm 1954. Cũng qua sự toa rập ký kết từ trước, quốc hội Hoa Kỳ chấm dứt viện trợ quân sự và kinh tế cho VNCH, đưa đến sự sụp đổ toàn diện của một quốc gia chỉ vì tin cậy vào sự giúp đỡ của đồng minh.. vào lúc 12 giờ trưa ngày 30-4-1975.

Trong suốt bao chục năm qua, cộng sản đã ký bao nhiêu hiệp định ngày 6-3 và 14-9-1946, 20-7-1954 rồi 27-1-1973 nhưng chẳng bao giờ thực hiện. Bởi vậy đừng tin những gì cộng sản nói mà hãy nhìn những gì chúng làm. Chí lý thay lời nhận định của cố tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, vậy mà tới nay còn không ít người không chịu tin vào sự thật.

2 - KISSINGER VÀ HIỆP ƯỚC HÒA BÌNH GIẢ MẠO:

Cái khôi hài cười ra nước mắt của người Mỹ là ngay trong lúc một mặt đổ quân ào ạt vào Nam VN năm 1965, cũng đồng thời bí mật đi đêm với Bắc Việt gọi là mưu tìm một giải pháp hòa bình, chính Pháp và Tòa Thánh La Mã khởi động đầu tiên dàn xếp để hai phiá ngồi vào bàn hội nghi nói chuyện ngưng bắn theo kế hoạch Mayflower nhưng bất thành.

Ngày 17-6-1965 Anh và Liên Xô nhập cuộc, mở hội nghị 4 nước Anh-Ghana-Nigeria-Tobago với sự ủng hộ công khai của hai nghị sĩ dân chủ là Mike Mansfield và Fullbright, muốn Mỹ ngưng oanh tạc Hà Nội và ngược lại Bắc Việt ngừng chuyển bộ đội vào Nam nhưng bị cộng sản bác bỏ vì lập trường đối nghịch của hai đàn anh Nga-Tàu. Tháng 7/1965 tổng thư ký LHQ là U Thant muốn mở lại hội nghị Geneve 1954. Tháng 10/1965 ngoại trưởng Ý là Amintore Fanfani và Giáo Hoàng Paul VI cũng nhập cuộc, bằng cách liên lạc thẳng với Hà Nội, Mặt Trận GPMN và Tổng Thống Johnson nhưng cũng bất thành vì Hồ đòi công nhận Ma mặt trận là một chánh phủ giống như VNCH.

Tóm lại những kế hoạch kể trên đều khởi động nhịp nhàng theo các phong trào phản chiến tại nội địa Mỹ do Luther King, Hoffman, Larson xách động, biến các trường đại học Mỹ thành căn cứ du kích Bắc Việt ngay trên lãnh thổ Hoa Kỳ. Chiến tranh dữ dội khắp VNCH nhịp nhàng với các biến động chính trị tại Huế-Sài Gòn. Hoa Kỳ tiếp tục oanh tạc miền Bắc nhưng Hồ vẫn không nhượng bộ vì đang leo dây giữa Nga-Tàu, nên chỉ biết ậm ờ trước các đề nghị hòa bình. Tại Mỹ, ngày 20-2-1966, Robert F.Kennedy công khai đòi cho MT/GPMN tham gia chính phủ nhưng bị chống đối kịch liệt.

U Thant và De Gaulle là hai nhân vật hung hăng nhất trong việc kêu gào phải hòa bình tức khắc tại VN bằng cách ngưng oanh tạc miền bắc, Mỹ rút quân và để MT/GPMN tham chính. Sở dĩ cả hai làm như vậy vì U Thant tuy là tổng thư ký LHQ nhưng lại thân cộng ra mặt, còn De Gaulle với dụng tâm đạo đức giả, thù Mỹ đã phỏng tay trên Đông Dương, nên nhỏ mọn trả thù vặt. Rốt cục cả thế giới lẫn Vatican đều trúng kế Hồ Chí Minh, càng lúc càng chia rẽ và phân hóa trầm trọng.

Năm 1967 phong trào phản chiến lên cao tại Hoa Kỳ làm phân hoá đảng dân chủ vì là mùa bầu cử, nên tổng thống Johnson tuyên bố trong cuộc hội nghi với TT Nguyễn Văn Thiệu tại Guam, là sẽ thương thuyết thẳng với Bắc Việt.Tất cả chỉ là màn hỏa mù ngoại giao vì Mỹ và Hà Nội đã đi đêm từ cuối năm 1966, do sự dàn xếp của Thụy Điển nhưng phải đợi tới ngày 31/3/1968 khi Johnson tuyên bố không tái tranh cử và bộ đội của Bắc Việt cũng như VC bị tan nát tại miền Nam trong trận Tết Mậu Thân, cộng sản mới chính thức ngồi lại với Mỹ. Rồi Nixon thắng cử tống thống, Kissinger được giao trách nhiệm đi đêm với Lê Đức Thọ, tự quyết định số phận của VNCH, mà không cần đếm xỉa gì tới chủ quyền của miền Nam lúc đó.

Theo giáo sư tiến sĩ Stephen Young, từng phục vụ nhiều năm trong bộ ngoại giao Hoa Kỳ thì Kissinger, trưởng phái đoàn thương thuyết Mỹ đã bán đứng VNCH cho Bắc Việt khi chấp thuận cho Hà Nội được lưu giữ đạo quân xâm lăng ở miền Nam VN. Hậu quả tạo ưu thế quân sự cho địch cưỡng chiếm VNCH khi Hoa Kỳ rút toàn bộ quân lực về nước và cắt giảm quân viện năm 1973 rồi cắt đứt năm 1975. Tổng thống Nixon ngay khi làm TT năm 1969 đã tuyên bố sẽ chấm dứt chiến tranh, đem hết quân Mỹ về bằng một kế hoạch bí mật.

Vấn đề chính là Nam VN chẳng hề biết tới kế hoạch đó là gì và nói là VN hóa chiến tranh nhưng QLVNCH tới đầu năm 1972 mới được cải tiến trang bị, trong lúc bộ đội miền Bắc đã sử dụng những vũ khí cá nhân và cộng đồng tối tân của khối cộng từ khi Mỹ còn hiện diện.Năm 1972 Nixon đã đạt được những thỏa uớc lịch sử với Nga lẫn Trung Cộng. Chính điểm này để Nixon thắng Mc.Govern làm TT nhiệm kỳ 2. Tuy nhiên việc oanh kích Hà Nội trong 12 ngày liên tiếp và thả mìn phong tỏa Hải Phòng, suýt làm Bắc Việt đầu hàng vô điều kiện, nếu không bị đảng dân chủ và phe phản chiến chống đối dữ dội.

Giữa lúc TT Nixon trong tình thế khó xử, thì Kissinger đưa sáng kiến phản bội VNCH để đổi lấy sự ủng hộ của quốc hội Mỹ, trong việc làm thăng bằng cán cân chiến tranh lạnh, nói thẳng là giúp Do Thái đương đầu với khối Ả Rập. Do nhận thức sai lầm trên, đã khiến Kissinger thành kẻ chủ bại, hèn nhát, bất nhân đẩy VN vào định mệnh oan nghiệt. Thực tế còn gian ác hơn ta nghĩ, vì Kissinger chẳng những muốn Hoa Kỳ rút khỏi VN mà còn làm cho dân chúng Mỹ không còn nhớ tới cuộc chiến đó trong tiềm thức. Hậu quả lưu manh này khiến cho các quân nhân Hoa Kỳ tham chiến tại VN trở về bị đối xử tàn tệ, tẻ nhạt cho tới mấy năm sau mới được hồi phục lại danh dự.

Trong thâm tâm của Kissinger, đưa quân đội Mỹ về chưa đủ, mà phải làm sao thọc gậy quốc hội cắt đứt mọi nguồn viện trợ cần thiết, thì mới chấm dứt được chế độ miền Nam. Do trên ông ta tự đẻ ra sáng kiến riêng, chủ đích làm hỏng chương trình VN hoá của Nixon. Theo tài liệu của đại sứ Bunker, thì bí mật lớn nhất của Kissinger là sự xuống thang chiến tranh. Đây là sáng kiến tàn nhẫn nhất vì để đổi một thắng lợi ngoại giao cho Mỹ và VNCH, Kissinger cho lại Bắc Việt MỘT CHIẾN THẮNG QUÂN SỰ, tức là Y đã tiết lộ bí mật quốc phòng cho địch. Nhưng sự kiện này không bao giờ Kissinger dám nhận và chính trong hồi ký của TT. Nixon đã viết là chẳng bao giờ ông cho phép làm chuyện đó khi thương thuyết với Hà Nội.

Tóm lại để kết thúc chiến tranh VN theo ý mình, Kissinger không bao giờ trình bày sự thật khi thương thuyết với Hà Nội cho TT.Nixon biết. Từ ngày 13-4-1971, Kissinger đã manh nha trò phản bội và lộng quyền, khi tự sử dụng đường dây nóng đặc biệt không qua Bộ Ngoại Giao và Tổng Thống Mỹ, để ra lệnh cho Đại Sứ Bunker và Bắc Việt. Theo các tài liệu lịch sử đã giải mật, những lộ đồ đề nghị hòa bình VN của các giới chức Mỹ từ tổng thống Nixon tới đại sứ Bunker hoàn toàn trái ngược với ý riêng của Kissinger

Theo bản dự thảo chiến lược chính thống, thì sự ký kết hòa bình chỉ xảy ra sau khi QLVNCH đạt được chiến thắng tại Hạ Lào qua cuộc hành quân Lam Sơn 719, phá vỡ toàn bộ các căn cứ hậu cần của Bắc Việt tại đây nhằm cắt đứt đường tiếp vận cho bộ đội miền Bắc qua đường mòn Hồ chí Minh. Về rút quân thì bắt đầu năm 1971-1972, bộ binh về trước khi đã chứng thật rằng QLVNCH được VN hoá chiến tranh, đủ mạnh để thay thế quân lực Hoa Kỳ đương đầu với Bắc Việt. Riêng Không quân-Hải quân vẫn duy trì cho tới khi thấy Hà Nội thật sự tôn trọng hòa bình của Nam VN. Một điều quan trọng nhất mà đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn là Bunker, mong muốn Hoa Thịnh Đốn phải chứng tỏ vai trò hợp hiến của CHÍNH PHỦ VNCH tại bàn hội nghị và cái sự Hoa Kỳ ngồi nói chuyện với Hà Nội đã là một nhượng bộ, vì rõ ràng lúc đó Bắc Việt đang thảm bại quân sự trên khắp các chiến trường, chiến dịch ở miền Nam. Một sự kiện khác cũng không kém phần quan trọng tại Hoa Kỳ, là mặc dù bị đảng dân chủ đánh phá kịch liệt, đòi rút quân về tức khắc để đổi tù binh nhưng TT Nixon lúc đó, vẫn cương quyết không tiết lộ lộ trình triệt thoái và giữ nguyên ý định không giải kết với VNCH vì quyền lợi Mỹ.

Theo các sử gia, nếu Kissinger thật sự là một nhà thương thuyết giỏi và có lương tâm, ông ta đã vượt qua được những sóng gíó trùng trùng lúc đó, mang lại vinh dự cho nước Mỹ và công lý cho VNCH. Lịch sử đã chúng nhận điều này chỉ mới đây trong việc Tổng Thống G.W.Bush trước khi tiến quân đánh Iraq. Nhưng Kissinger chỉ là một học giả chứ không phải là một nhà ngoại giao, một người Do Thái thuần tuý nên không hề biết tới quyền lợi và danh dự của Hoa Kỳ. Trước tiên, về việc cho phép BỘ ĐỘI BẮC VIỆT ở lại miền Nam, Kampuchia, Lào được coi như một hành động ngu xuẩn nhất của Kiss

Thế nhưng Kissinger nơi trang 1488, y đã tự sửa lại là: “người VN và các dân tộc khác ở Đông Dương, sẽ tự thảo luận để tất cả quân đội ngoại nhập rút ra khỏi Đông Dương”.Như vậy muốn Hoa Kỳ ngưng oanh kích rút quân, mà không có một đòi hỏi gì cho đối phương, thậm chí còn cho chúng ở lại để tiếp tục làm giặc, thì thương thuyết để làm gì, cho nên sau này Hà Nội và thế giới khinh khi, cười chê Hoa Kỳ là vậy. Ngoài ra chẳng bao giờ Kissinger coi VNCH là một quốc gia độc lập có chủ quyền, nên hắn đã có cái nhìn coi Hà Nội mới là đại diện để thương thuyết với Mỹ. Đây là một sự phản bội trắng trợn của lời cam kết từ các chính quyền Hoa Kỳ như TT.Kennedy, Johnson, Nixon.. luôn tuyên bố tôn trọng nền độc lập của quốc gia đồng minh.

Tóm lại với luận điệu lừng khừng, chủ bại, đầu óc lắt léo tàng tàng, kissinger đi phó hội trong một tư thế hèn yếu, rẻ mạt, nên chỉ còn bán đứng VNCH mới mong lấy lại tù binh về. Ngày 25-5-1971, để tránh bị kiện tụng vào phút chót, Kissinger đã điện thoại gạt Bunker là chương trình nghị sự sẽ theo đúng bản dự thảo của TT.Nixon và tòa đại sứ Mỹ-Sài Gòn.

Cũng do lòng tin tưởng trên, nên ngày 3-6-1971, Đại sứ Bunker đã tường trình với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu có Kissinger hiện diện, kết quả thương thuyết theo bản dự thảo của TT.Nixon và Toà đại sứ. Trong khi trình bày, Bunker xác quyết là BỘ ĐỘI BẮC VIỆT cùng rút về Bắc khi quân đội Đồng Minh và Hoa Kỳ triệt thoái. Việc tréo cẳng ngổng này cho thấy, TT Thiệu và Chính phủ VNCH hoàn toàn không được Hoa Kỳ cũng như Kissinger hỏi han hay cho biết một chút gì về vận mệnh tương lai của xứ sở mình. Trước sự kiện trên, Kissinger chẳng những không đính chính mà còn lợi dụng sự không biết gì, để ép TT Thiệu không được tiếp tục đòi hỏi hắn, khi việc BỘ ĐỘI MIỀN BẮC đã được giải quyết.

Tháng 10/1972 giai đoạn cuối cùng trong bàn hội nghị, Kissinger thay vì cố gắng đạt được những ưu thế cho Hoa Kỳ và đồng minh Nam VN, Kissinger lại tấn công tới tấp TT Nguyễn Văn Thiệu và gọi đó là lý do chính trở ngại cho cuộc hoà đàm. Ngày nay dựa vào những tài liệu mật và ngay chính hồi ký của Kissinger, chúng ta mới thấu hiểu sự dối trá và bất lương của y đối với VNCH. Đó là sự hiểu biết quá kém cỏi về lịch sử VN dù hắn ta luôn tự hào về cái trường đại học luật khoa danh tiếng Havard nay chỉ còn là cái mốt thời thượng. Hèn nhát trước phong trào phản chiến do cộng sản quốc tế dàn dựng, Kissinger đã đánh mất sự thông minh của một nhà ngoại giao, qua mặt dân chúng và chính quyền Hoa Kỳ, phản bội đồng minh đang chiến đấu dũng liệt trước làn sóng đỏ.

Ngày 1-8-1972, trong cuộc họp mật, Hà Nội bảo với Kissinger là ngoài việc BỘ ĐỘi Ở LẠI, TT Thiệu phải từ chức để thay thế bằng chính phủ liên hiệp. Từ tháng 8-1972, sự chống đối Mỹ từ chính phủ VNCH đã lên tới cao điểm như không cần đếm xỉa tới thời hạn mà Kissinger ấn định, TT Thiệu không tiếp chuyện với TT.Nixon gọi từ Honolulu cũng như tuyên bố là sẽ không bao giờ từ chức, Chính phủ liên hiệp không bao giờ có.

20-9-1972 sau chuyến thanh sát tại Quảng Trị điêu tàn đổ nát, vừa được QLVNCH chiếm lại, TT Thiệu về Sài Gòn tuyên bố “vận mệnh của DÂN TỘC VN phải do đồng bào VN quyết định” và ông đã tố cáo Kissinger chỉ biết tự mình quyết định tất cả mà không coi VNCH ra gì.

Ngày 19-10-1972, Kissinger, Bunker họp với TT Thiệu, Phó Tổng Thống Hương và Hội Đồng An Ninh Quốc Gia. Theo các tài liệu ghi nhận, cuộc họp đầy căng thẳng và thái độ cuả TT.Thiệu khinh bỉ Kissinger tại cuộc họp mà ai cũng thấy rõ khi tuyên bố hắn ta chỉ là một người trung gian không hơn không kém, quyền quyết định hòa hay chiến là của Sài Gòn-Hà Nội, chứ không phải Hoa Kỳ. Phiên họp chấm dứt nhưng phút chót TT.Thiệu không biết vì một lý do nào đó lại ký nhận vào bản hiệp định..

Ngày 26-11-1972, Bunker chuyển một lá thơ của Nixon, cho biết nếu VNCH cưỡng lại Hoa Kỳ thì VIỆN TRỢ sẽ bị cúp ngay và tánh mạng tổng thống Thiệu nếu muốn giữ, phải KÝ KẾT. Để tấn tuồng kết thúc trọn vẹn, bất ngờ ngày 18-12-1972, Nixon ra lệnh oanh tạc THẬT Hà Nội-Hải Phòng và các căn cứ quân sự tại Bắc Việt một cách sấm sét dã man, bất chấp Dân Chủ và phản chiến kêu gào la ó. Đến lúc này, thì TT Thiệu không tin cũng phải tin là Hoa Kỳ qua lời hứa của Nixon trong mấy chục bức thơ riêng, sẽ dội B52 và can thiệp ngay bằng quân sự nếu Hà Nội phản thùng, tấn công VNCH. Ngày 30-4-1975, Miền Nam bị bức tử vì Kissinger, một tên trí thức xuẩn động ngây thơ, có đầu óc thực dân kiêu căng thời Trung cổ. Hắn vì muốn thoả mãn nhu cầu cho bọn siêu quyền lực mà phần lớn gốc Do Thái đang thao túng nước Mỹ và thế giới, cho lũ phản chiến đa số bị bệnh tâm thần vì đồng tình luyến ái, hút sách, ảo vọng, nên đã hại không biết bao nhiêu người đã chết, tan nhà, mất nước trong suốt 34 năm qua, tới nay càng thêm đau khổ tận tuyệt trong cảnh nước mất nhà tan, dân tộc bị Hán hoá tuyệt chủng.

Cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai 1955-1975 kết thúc là thế đó, hơn 60.000 quân nhân Mỹ và Đồng Minh bỏ mạng, nhiều người khác bị thương, một trăm năm mươi tỷ mỹ kim tiền thuế của dân chúng Mỹ, đổi lấy sự sụp đổ của VNCH bằng một hiệp định chẳng danh dự, do chính Kissinger đạt được. -/-

ĐÊM GIAO THỪA, NGHĨ VỀ CÁI CAO CẢ VÀ HY VỌNG MỘT CUỘC HÒA GIẢI DÂN TỘC





Xung quanh đám tang một nhà chí sỹ ái quốc,
nghĩ về cái cao cả và hy vọng một cuộc hòa giải dân tộc

Đào Tiến Thi

Chúng ta nên đẹp, quanh cái chết một người thân
(Nguyễn Tuân)
Lời đề từ trên là câu của nhà văn Nguyễn Tuân nói với các bạn bè văn nghệ sỹ vào đêm trước tiễn đưa nhà văn yểu mệnh Vũ Trọng Phụng về nơi an nghỉ cuối cùng. Trong cuộc họp mặt ấy, Nguyễn Tuân và các nhà văn đương thời nhắc lại cuộc đời của nhà văn họ Vũ, một người sống quá “phải chăng”, nghĩa là mực thước quá, nghiêm chỉnh quá, không đúng kiểu người văn nghệ sỹ thuở ấy, khiến cho những người quen “lệch chuẩn” như Nguyễn Tuân nhiều lúc cảm thấy khó chịu. Và một người “kềnh càng” như Tản Đà, theo Nguyễn Tuân, càng không thể dung hòa với cái tính “thiết thực” của Vũ Trọng Phụng: “Hai người ấy bây giờ đã là ma, cùng thở hơi cuối cùng ở một xóm Cầu Mới, số nhà 71 và 73, cùng yên nghỉ ở một nghĩa trang. Chắc ở dưới ấy, giờ gặp lại nhau, hai người tránh sao được cái lủng củng, nếu hai hồn ma không chịu nghĩ đến cái tàn lạnh cuộc đời chung của tài hoa mà chịu đựng lấy nhau” (Một đêm họp đưa ma Phụng, 1939).
“Vênh” nhau như thế, nhưng trước cái chết của bạn, họ đã rất đẹp. Đẹp ở chỗ bỗng nhận ra vẻ đẹp của người bạn xấu số: những sự “thiết thực” của Vũ là chu đáo, thủy chung và tài thượng phân minh hiếm có. Đẹp ở chỗ bỗng thấy thương nhau hơn, tìm cách xích lại gần nhau hơn. Họ  “thức cả đêm bàn tán về chuyện nên sớm nghĩ đến việc Hội Ái hữu Nhà văn”. Riêng Nguyễn Tuân còn đẹp cả quần áo, khi ông cố “nương nhẹ” bộ sơ mi, “giữ sao cho vẹn màu hồ, để ngày mai đưa Phụng nó lên đường”.
Trở lại, xung quanh cuộc lên đường của nhà chí sỹ Lê Hiếu Đằng (khi nào có điều kiện, tôi sẽ nói vì sao tôi dùng danh xưng này cho ông; có lẽ cho đến bây giờ chỉ có tôi và TS. Nguyễn Xuân Diện dùng như thế), tôi thấy có rất nhiều tấm lòng đẹp, cử chỉ đẹp, dù họ ở “lề trái” hay “lề phải”, ở bên “thắng cuộc” hay bên “thua cuộc”.
(Xin không bàn ở đây những hành động phá đám của mấy côn đồ vô danh ẩn mặt. Dù đằng sau họ là ai, thì rốt cuộc họ đã không phá đám nổi. Và cuối cùng, như ta thấy, cái đẹp đã chiến thắng)
Là đẹp, khi các thầy thuốc ở Bệnh viện 115 Sài Gòn đã tận tâm chạy chữa, bày tỏ thiện cảm ngầm với một nhà “bất đồng chính kiến” đang bị theo dõi và báo chí chính thống mạt sát.
Là đẹp, khi nghe tin ông Lê Hiếu Đằng lâm bệnh, khắp nơi, cả đồng bào trong nước và đồng  bào ở nước ngoài, cả trí thức và những người công nhân, nông dân đã thăm hỏi, quyên góp và làm mọi việc có thể, mong giúp ông Đằng qua khỏi căn bệnh hiểm nghèo. Và khi nhà chí sỹ nằm xuống thì có rất nhiều người (kể cả không quen biết) đến viếng và tình nguyện giúp rập việc tang ma. Đám tang ông có ngót một nghìn người tham gia. Nếu không sợ bị liên lụy, chắc số người đi tiễn đưa nhà chí sỹ còn đông hơn nhiều.
Là đẹp, khi thành phần Ban lễ tang có cả “lề trái” và “lề phải” mà linh hồn trung tâm, theo tôi, là Bác sỹ Huỳnh Tấn Mẫm (Phó ban Lễ tang), một người đồng chí của Luật gia Lê Hiếu Đằng suốt từ thời phong trào sinh viên, trí thức Sài Gòn trước 1975, cho đến hôm nay, vẫn cùng trong đội ngũ của cuộc tiên phong bảo vệ Tổ quốc và dân chủ hóa đất nước.
Là đẹp, khi khách viếng có cả những quan chức mà tuy hiện nay không còn đứng chung đội ngũ với ông Lê Hiếu Đằng nhưng vẫn coi trọng tình bạn, tình đồng chí năm xưa.
Là đẹp, khi trong số quan chức đến viếng còn có cả cựu Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và phu nhân, có cả phu nhân của đương kim Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (lẽ tất nhiên phải có sự đồng ý của Chủ tịch Trương Tấn Sang). Tôi tin rằng đây không chỉ là chuyện “nghĩa tử là nghĩa tận”, không chỉ là tình đồng chí đồng đội năm xưa, mà còn có phần sâu sắc hơn thế nhiều. Cựu Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ghi vào sổ tang những lời mà nếu suy nghĩ kĩ, ta thấy ông đã nhắn gửi trong đó một sự đồng cảm sâu sắc: “Cuộc đời này còn lắm gian truân. Chúc người bạn Lê Hiếu Đằng siêu thoát”. Cựu Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và phu nhân, đương kim Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và phu nhân, khi ở trong hệ thống bộ máy công cụ không phải bao giờ cũng (được) hành động đúng, nhưng khi ở tư cách cá nhân, tôi tin các ông đã hành động theo sự mách bảo của lương tri.
Là đẹp, khi trong lễ truy điệu nhà chí sỹ đã vang lên bài ca Tự nguyện, một bài hát mà thế hệ ông Lê Hiếu Đằng đã hát vang trong các cuộc tranh đấu vì dân tộc và dân chủ. “Nếu là chim, tôi sẽ làm loài bồ câu trắng... Là người, tôi sẽ chết cho quê hương…”. Đó là sự nguyên khối trong lý tưởng và tình cảm của những Lê Hiếu Đằng, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Công Giàu, Huỳnh Kim Báu,… những sinh viên xuống đường năm xưa và những trí thức mái đầu bạc xuống đường hôm nay. Cái cao cả, thứ tưởng như xa xỉ của hôm nay, lại vút lên từ cái bi thương, cũng như sự sống đã phát sinh từ cái chết.
Bóng ma một ách thực dân mới đến từ phương Bắc ngày càng trùm lên đất nước, trong khi đất nước ngày càng lún sâu vào một cuộc khủng hoảng toàn diện. Nhưng khả năng hội tụ những tấm lòng từ các ngả khác nhau cũng lớn dần lên. Trong cuộc mít tinh (bất thành) hôm 19-1 vừa rồi có những cựu chiến binh (cộng sản) Bắc Việt khóc thương cho những người lính Việt Nam Cộng hòa hy sinh vì Hoàng Sa là điều mà chỉ cách đây 5 năm cũng khó tưởng tượng được. Trong đám tang nhà chí sỹ Lê Hiếu Đằng có cả hai “lề”, như là sự chấp nhận lẫn nhau, trong đó chắc chắn có cả những sự cảm thông nhất định giữa một số cá nhân với nhau. Hy vọng một lúc nào đó, trong khoảnh khắc mất còn của Tổ quốc, những người yêu nước, yêu dân chủ, bất kể ở “lề” nào, sẽ xiết chặt tay nhau cùng chống giặc ngoại xâm. Và tất nhiên, muốn chống được giặc ngoại xâm, thì nhân dân phải là người làm chủ đất nước, tức là phải xây dựng một chế độ dân chủ, pháp quyền.
ĐTT
(Đêm giao thừa Quý Tỵ - Giáp Ngọ)

Cựu Tù Nhân Lương Tâm Trần Tử Thanh: CSVN Thi Hành Chính Sách Tra Tấn Thầm Lặng Trong Các Tù Cải Tạo.


  
Hình (NQK): Họp báo tại Quốc Hội Hoa Kỳ vào ngày 16-1-2014. Ông Trần Tử Thanh ngồi ghế thứ ba từ bên trái.
Vào ngày 16-1-2014 vừa qua, DB Christopher Smith cùng với BPSOS đã tổ chức một cuộc họp báo trong khuôn khổ của Chiến Dịch Vận Động Xóa Bỏ Chế Độ Tra Tấn Tù Nhân Tại Việt Nam.  Mặc dù CSVN đã phê chuẩn Công Ước Chống Tra Tấn của Liên Hiệp Quốc (United Nations Convention Against Torture) vào 2013, nhưng việc đánh đập và tra tấn những người bất đồng chánh kiến, bầy tỏ ý kiến một cách ôn hòa và tù nhân vẫn tiếp tục.  Ngoài ra CSVN còn dùng thủ đoạn dùng tù trị tù dùng tù xử tù một cách thâm độc như Cô Đỗ Thị Minh Hạnh tố cáo.
Bằng chứng là chỉ cách đây hơn một tuần vào ngày 20-1-2014, nhân dịp Tết sắp đến, một số thành viên của Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự và Hội Bầu Bí Thân Thương gồm có TS Nguyễn Quang A, các Ông Nguyễn Tường Thụy, Vũ Mạnh Hùng, Nguyễn Lân Thắng, Nguyễn Kim,  Nguyễn Lê Hùng, và Cô Thảo  đi thăm viếng cựu tù nhân lương tâm Phạm Văn Trội tại xã Chương Dương, Thường Tín, Hà Nội.  Họ đã bị công an mặc thường phục chặn lại và lôi vào Ủy Ban Xã rồi lên Văn phòng Đảng ủy Đảng Cộng sản Việt Nam xã Chương Dương. Tại đây, Ông Nguyễn Kim đã bị công an đánh trọng thương.
Trước đó, vào ngày cuối năm 2013, Ông Huỷnh Ngọc Tuấn cùng một số nhà hoạt động nhân quyền gồm có Bà Lê Thị Công Nhân và chồng là Ông Ngô Duy Quyền, cùng với Ông Phạm Bá Hải đã đến thăm gia đình Ông Phạm Văn Trội tại Hà Tây. Ba người bị công an hành hung là Ông Huỳnh Ngọc Tuấn và vợ chồng Bà Lê Thị Công Nhân. Người bị đánh đập nặng nhất là Ông Huỳnh Ngọc Tuấn.  Một tuần lễ sau, vào ngày 7-1-2014, Ông Tuấn đi khám bệnh vì đau ngực mới biết xương ức bị gẫy.
Buổi họp báo được tổ chức nhắm tố cáo với dư luận quốc tế vế chánh sách đánh đập và tra tấn những nhà hoạt động nhân quyền và các tù nhân, đồng thời tạo áp lực với chính quyền Hà Nội để họ bãi bỏ hoàn toàn chính sách này như Công Ước Chống Tra Tấn của Liên Hiệp Quốc đã quy định.
Tham dự cuộc họp báo này ngoài DB Smith còn có TS Nguyễn Đình Thắng, Giám Đốc BPSOS và CAMSA; Ông Trần Tử Thanh, cựu sĩ quan Quân Lực VNCH và cựu tù nhân chính trị; Bà Trần Thị Ngọc Minh, mẹ của Cô Đỗ Thị Minh Hạnh, người đang thọ án bẩy năm tù từ năm 2010 vì đã can đảm bênh vực quyền lợi của công nhân và nông dân; Thượng Tọa Danh Tol, tu sĩ Phật Giáo Khmer, cựu tù nhân tôn giáo; và LS Patrick Griffith  thuộc tổ chức phi chánh phủ Freedom Now.
Hình (NQK): Ông Trần Tử Thanh thuyết trình tại cuộc họp báo ngày 16-1-2014 tại Quốc Hội Hoa Kỳ.
Bài báo này trình bầy kinh nghiệm của cựu tù nhân lương tâm Trần Tử Thanh trong trại tù cải tạo của CSVN trong 15 năm từ tháng 5, 1975 đến tháng 12, 1990. Ông Trần Tử Thanh nói:
Trên 800 ngàn quân nhân quân lực VNCH, cán bộ, cảnh sát, các đảng phái đã trở thành nạn nhân của sự trả thù tàn bạo nhất của quân CS xâm lược bằng các cuộc giết hại và ‘tra tấn thầm lặng’… Nhà cầm quyền Hà Nội đã chủ trương và cho áp dụng chính sách trả thù lâu dài bằng các cuộc tra tấn, cả thể xác lẫn tinh thần các tù nhân một cách vô cùng hèn hạ và ác độc chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc Việt Nam… Trên 165 ngàn tù nhân đã chết tức tưởi trong những trại lao tù CSVN dưới nhiều hình thức như bị hành quyết, tra tấn, đánh đập, cưỡng bức lao động khổ sai, bệnh tật …Tuy nhiên  cách tra tấn tàn bạo và độc ác nhất là ‘chính sách cố tình bỏ đói’. Không cần xử dụng tới vũ khí hay súng đạn, CSVN đã để cho cac tù nhân tự giết mình bằng những loại ‘thức ăn’ dơ bẩn và độc hại.”
Sau đây là nguyên văn bài thuyết trình của Ông Trần Tử Thanh.
oo0oo
Thưa:
-Ông Dân biểu Christopher Smith
-Quý vị đại diện các tổ chức nhân quyền
-Quý quan khách và quý vị trong giới truyền thông
Thật là một vinh dự lớn lao cho tôi ngày hôm nay, với tư cách là một cựu tù nhân vì lương tâm, được có cơ hội lên tiếng thay mặt cho hàng trăm ngàn anh em cựu tù nhân cải tạo, dù đã chết hay còn sống, cũng như hàng ngàn tù nhân chính trị hiện tại còn đang mắc vòng lao lý tại Việt Nam, về một đề tài mà hiếm khi có dịp được trình bày trước các buổi hội nghị hay hội thảo chuyên đề. Đó là câu chuyện sống thật, những cảm nghĩ và tiếng nói của một cựu tù nhân chính trị, trên cơ thể hiện còn đang mang nhiều vết thương tra tấn, hậu quả của nhiều năm bị giam giữ trong ngục tù CSVN.
Vào cuối tháng 4 năm 1975, lúc mà chính quyền Hoa Kỳ chỉ muốn nhanh chóng rút quân cùng toàn bộ nhân sự để khép lại chương sử chiến tranh Việt Nam, họ đã bỏ lại đằng sau hơn 980 ngàn quân đồng minh QLVNCH, với phương tiện thiếu thốn, phải đơn độc đương đầu với quân CSVN được sự hậu thuẫn toàn diện bởi Liên Sô, Trung Quốc và toàn khối Cộng Sản  Vac-Sa-Va (Warsaw Bloc).
Vớí cái giá quá cao vì sự bội ước này mà nhân dân miền Nam Việt Nam phải trả, là trên 800 ngàn quân nhân quân lực VNCH, cán bộ, cảnh sát, các đảng phái đã trở thành nạn nhân của sự trả thù tàn bạo nhất của quân CS xâm lược bằng các cuộc giết hại và “tra tấn thầm lặng.”
 
Hình (TTT): Ông Trần Tử Thanh trước  và sau 15 năm tù (1990).
Cộng sản đã tập trung họ vào hàng trăm trại cưỡng bức lao động, các phân trại lao cải hoặc các nhà tù được vội vã xây dựng trên khắp lãnh thổ Việt Nam. Thế giới đã hoàn toàn bị đánh lừa vì bề ngoài không thấy có các cuộc tắm máu. Nhưng đằng sau những hàng rào an ninh dầy dặc của cái gọi là “trại cải tạo”, nhà cầm quyền Hà Nội, qua các trại lao cải do quân đội quản lý, sau đến qua đến Bộ Nội Công An, đã chủ trương và cho áp dụng chính sách trả thù lâu dài bằng các cuộc tra tấn, cả thể xác lẫn tinh thần các tù nhân một cách vô cùng hèn hạ và ác độc chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Theo các tổ chức nghiên cứu về tù nhân và các tài liệu nghiên cứu có giá trị hàn lâm tại Hoa Kỳ và các quốc gia Âu Châu, trên 165 ngàn tù nhân đã chết tức tưởi trong những trại lao tù CSVN dưới nhiều hình thức như bị hành quyết, tra tấn, đánh đập, cưỡng bức lao động khổ sai, bệnh tật …Tuy nhiên  cách tra tấn tàn bạo và độc ác nhất là “chính sách cố tình bỏ đói.”Trong số người bị bức tử có thân phụ chúng tôi, cố luật sư Trần Văn Tuyên, cựu Phó Thủ Tướng của Việt Nam Cộng Hòa, nhà làm luật, nhà lãnh đạo chính tri, đồng thời cũng là Chủ Tịch, Sáng lập viên của “Hội Bảo Vệ Nhân Quyền và Dân Quyền Việt Nam”, hội viên chính thức của Liên Đoàn Quốc Tế Nhân Quyền từ năm 1967 (International League for Human Rights). Hai người em họ, con chú bác ruột của tôi là các Thiếu Úy Trần Quang Vinh (Chiến Tranh Chính Trị) và Trần Hoài Hà (Nhẩy Dù) cũng đã bị CS hành quyết tại Ban Mê Thuộtvào năm 1976. 
Bị giam giữ trong các trại lao tù cộng sản, chúng tôi biết rằng, hy vọng sống còn để trở về với gia đình là điều quá mong manh. Đối với chúng tôi, tra tấn về thể xác không thấm tháp gì nếu đem so sánh với lối “tra tấn” khủng khiếp là “bị bỏ đói”. Những cơn đói triền miên ám ảnh chúng tôi kéo dài lê thê ngày này qua ngày khác. Cơn đói hành hạ chúng tôi 24 giờ mỗi ngày. Cơn đói làm mất đi nghị lực, tinh thần và nhân phẩm. Cơm gạo, củ sắn, củ khoai và ngô bắp đã dày vò sự thèm khát thường xuyên của chúng tôi và không có lúc nào để chúng tôi yên. Nó đã làm cho không hiếm những anh em đồng cảnh của chúng tôi, có đôi lúc, quên đi họ là “con người”, để chỉ còn giữ lại bản năng tự tồn không khác gì những con vật. Tôi  cho đây là lối “tra tấn thể xác lẫn tinh thần” độc ác và man rợ nhất mà chỉ những người CSVN mới dám làm.  Sau những tháng năm triền miên bị bỏ đói, người tù đã ăn bất cứ con gì biết cử động, từ con chuột cống, sâu bọ, rắn rết, bò cạp, ốc sên, và mọi loại côn trùng mà chúng tôi tìm thấy hoặc bắt được, những thứ mà trong thế giới no đủ, người ta ghê sợ và kinh tởm. Không cần xử dụng tới vũ khí hay súng đạn, CSVN đã để cho cac tù nhân tự giết mình bằng những loại “thức ăn” dơ bẩn và độc hại nêu trên.
Kỷ thuật tra tấn ở các trại lao cải              
Bộ nội vụ CSVN đã đề ra những nội quy, quy định, những điều lệ rất khắt khe và nghiêm khắc nhằm kiểm soát chặt chẽ tư tưởng và hành động của các tù nhân. Bất cứ một tù nhân nào vi phạm nội quy của trại giam như xách động chống đối, tuyên truyền rỉ tai, phổ biến kinh kệ, giáo lý các tôn giáo, nói tiếng ngoại ngữ… khi bị phát hiện qua những tên điềm chỉ (ăng ten) sẽ ngay tức khắc bị đưa giam vào phòng kỷ luật với các biện pháp trừng trị như sau:
-Khẩu phần ăn, tùy theo mùa,  sẽ là một nửa chén cơm gạo mốc nhỏ với vài thìa nước muối, hoặc hai, ba mẩu khoai lang, khoai mì (sắn), hoặc nửa chén nhỏ sắn khô hôi mốc, bo bo chưa xát vỏ, hay ngô hạt rất cứng, loại thức ăn chỉ có ngựa mới có thể ăn và tiêu hóa.
Có hàng trăm tù nhân đã bị “hành quyết” vì trốn trại như Đại Úy Chu Minh Lộc ở trại 12 thuộc Đoàn 776, Yên Bái, Thiếu Tá Nguyễn Văn Thịnh, trại Suối Máu Biên Hòa hoặc Đại Úy Nguyễn Văn Giàu và Thiếu Tá Lê Đức Thịnh tai trại Long Giao, Long Khánh, Đại Uý Đỗ Văn Mười tại Bình Tuy… Hàng trăm tù nhân đã bị tra tấn đánh đập và cùm chân tay cho đến chết như Linh Muc Nguyễn Văn Vàng, Đại Úy Bác Sỹ Nguyễn Kim Long…ở trại Phú Yên, Thiếu Tá Cảnh sát Nguyễn Văn Hằng ở trại Hà Nam Ninh, Dân Biểu Đặng Văn Tiếp tại trại Lý Bá Sơ, Linh Mục Hoàng Quỳnh, Đai úy Không Quân Dương Hùng Cường ở trại giam Phan Đăng Lưu, Đại úy Lực Lượng Đặc Biệt Đoàn Văn Xương tại trại số 6 Nghệ Tĩnh… Còn hàng trăm, hàng ngàn người nữa mà tôi không thể liệt kê hết ngày hôm nay.
Tùy theo mỗi trại giam, cong an CS đã được huấn luyện thuần thục hoặc tự sáng chế ra những phương pháp trừng phạt đa dạng và tra tấn man rợ khác nhau như sau trong khi bị biệt giam:
1.     Nhẹ nhất là khóa hai tay ra đằng sau lưng.
2.     Trói ngược hai tay ra sau và xiềng hai chân
3.     Xích một tay bên này vào chân bên kia bằng sợi giây xích ngắn. Cách này làm cho tù nhân không thể cử động hay nằm ngủ được, chỉ ngủ ở thế ngồi. Nếu dang chân hay tay ra thì cổ tay hay mắt cá sẽ bị cứa đứt, chảy máu.
4.     Xiềng hai cánh tay ngược lên đằng sau vai với hai chân gấp ngược lên lưng. Cách này chỉ có thể nằm sấp, một phần của ngực áp xuống sàn xi măng. Cách xiềng này khó ai có thể chịu đựng được quá 3 tiếng đồng hồ.
5.     Cùm hai chân lâu dài trong phòng tối. Tù nhân phải ăn ngủ và vệ sinh tại chỗ. Rất nhiều trường hợp cùm rỉ sét làm cho mắt cá bị nhiểm độc, lở loét.
6.     Riêng tại Miền Nam Việt Nam, CS thường nhốt trừng phạt tù nhân với thế ngồi co gấp trong một thùng sắt nhỏ gọi là conex để ngoài trời nắng như thiêu đốt, miền nhiệt đới . Nhiều tù nhân đã chết vì không chịu nổi sức nóng hay bị ngộp thở bởi cách tra tấn tàn ác này.
Cá nhân tôi, trong một buổi tẩy não mà CS gọi là “học tập chính trị”, đã từ chối dùng tiếng “thằng”thiếu lễ độ để gọi cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, chúng lôi tôi ra khỏi lớp, đưa lên ngọn đồi thấp sau trại, nơi đó có 4 tên cai tù bắt đầu đấm đá liên tục vào ngực và vào bụng tôi một cách man rợ.  Với phản ứng tự nhiên, phải chống đỡ tự vệ vì quá đau đớn. Một cai tù đã dùng bá súng AK47 đập mạnh vào mặt tôi, làm bể mí mắt bên trái. Mặt tôi máu đầm đìa, chảy thấm ướt sũng bộ áo  quần tù. Cú đánh tiếp thứ hai rất mạnh làm gẩy 3 răng hàm bên trái. Vì trận đòn quá đau đớn, lại mất nhiều máu, tôi đã bị ngất xỉu tại chỗ.  Kết quả trận đòn này, tôi đã bị ho ra máu nhiều tháng cho đến khi nhờ các anh em tù “biệt kích Nhảy Bắc” cùng trại biết được sự việc, đã tuồn vào cho một mẩu nhỏ mật gấu bằng móng tay, dặn tôi mài ra uống với vài giọt rượu hoặc nước ấm; nhờ vậy bệnh mới thuyên giảm.
Ngày 16 tháng 12 năm năm 1983, tôi lại bị công an Bộ Nội Vụ bắt giam lần thứ hai về tội âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân qua “Tổ Chức Mặt Trận Dân Tộc Cứu Quốc.”  Sau khi bắt, công an bịt mắt chuyển tôi đến trại giam T82 ( hiện T82 đã được đổi thành B34 để ngụy trang che dấu). Để ép cung, công an phòng Điều Tra Xét Hỏi cho cùm cổ chân phải vào cườm tay trái của tôi với sợi xích ngắn hầu không cho tôi cử động. Suốt thời gian thẩm vấn tôi, công an đã tận dụng mọi kỹ thuật khai thác như “ép cung”, “mớm cung”, “dụ cung”, ép buộc tôi phải nhận tội “Âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân” và khai báo theo ý muốn của chúng để chúng có đủ bằng chứng “kết án tôi tử hình”. Chúng dùng đủ mọi hình thức nhục hình để khai thác tin tức, áp dụng các kỹ thuật hỏi cung tinh vi, tra tấn không để lộ dấu vết trên cơ thể tù nhân. Nhiều tối, có lúc bốn, năm tên thẩm vấn viên thay phiên nhau tra hỏi, đánh đập tôi nặng nề, chúng biết tránh chỗ tử huyệt vì chúng muốn tôi sống để khai thác thêm những tin tức mà chúng cần. Một tra tấn viên tên Thanh Sơn dùng dùi cui bọc cao su đánh vào sườn non tôi trong khi hai tên khác (tên Chánh và tên Lê Văn Để) đè tôi xuống ghế dài. Sau đó chúng đánh vào lòng hai bàn chân.  Mỗi lần chúng đánh như thế toàn thân tôi, từ đầu óc đến lục phủ ngũ tạng thật đau đớn, thân thể như bị điện giựt. Chúng còn dùng cả cách tra tấn gọi là cho đi “tầu ngầm” bằng cách phủ một bao bố lên mặt rồi bắt đầu đổ nước để cho ngạt thở khi chúng bắt tôi  thú nhận là nhân viên tình báo và là gián điệp của cơ quan CIA Hoa Kỳ. Nhiều lần hai thẩm vấn viên dìm đầu tôi vào bể nước trong khi tay tôi bị còng thúc ké ra sau.
Suốt 14 tháng trời, công an biệt giam tôi để thẩm vấn ở trại T82 dưới sự chỉ huy của hai tên đại tá Lâm Quốc Hùng, trưởng phòng và tên trung tá Trần Hùng Nghiệp (gốc QuảngNgãi), phó phòng PA 24 (Phòng Điều Tra Xét Hỏi), sáu tên công an trong đó có tên Thanh Sơn và tên Chánh (gốc miền Nam) đã 3 lần dùng loại điện thoại hữu tuyến EE8  của quân đội Hoa Kỳ, nối hàm cá sâu, kẹp vào đùi và bộ phận sinh dục của tôi để quay điện. Thình lình bị điện giật quá mạnh, tôi té bật ngửa xuống sàn và tiểu ra quần. Kiểu ép cung này được CS thường dùng nhất khi thẩm vấn các tù chính trị, đặc biệt là đối với các tù nhân từ hải ngoại xâm nhập vào Việt Nam để hoạt động vào những năm 1984-1985.
Thỉnh thoảng trong lúc tra tấn, thẩm vấn viên đưa cho tôi xem tấm hình đứa con nhỏ 10 tuổi mà tôi đã xa cháu khi bị bắt vào tháng 5 năm 1975, lúc cháu mới một tuổi.  Tên trung tá Trần Hùng Nghiệp nói nếu tôi nhận tội, sẽ cho gặp mặt con.  Hắn dùng đòn tâm lý để lung lạc ý chí và tinh thần của tôi trong suốt thời gian dài tôi bị biệt giam tại trại T82 (hiện nay là B34), tại trại giam Phan Đăng Lưu và khu xà lim Kiên Giam khu E-D, lầu ba, khám Chí Hòa. Cuối cùng khi tôi vẫn cương quyết giữ vững lời khai, cộng với sự can thiệp của Thủ Tướng Thụy Điển Olof Palmer, của nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế và của chánh giới Hoa Kỳ, Bộ Nội Vụ CSVN lúc đó mới tuyên bố đang giam giữ ba anh em chúng tôi và sẽ truy tố chúng tôi về tội “Âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân” và “Tuyên truyền chống chế độ XHCN.”
Tính ra trong lần tù thứ hai này, từ lúc bị bắt cho tới khi bị đưa ra tòa 12/83-12/88, tôi đã bị biệt giam suốt 4 năm 6 tháng , hai năm với hai chân bị cùm và hai năm sáu tháng với một chân bị cùm trong xà lim tăm tối, hôi thối và ẩm mốc. Thân xác chẳng khác nào như đã bị tẩm lịệm trong quan tài dài 2 mét rưỡi, ngang 90 cm với chiều cao 2 mét, và chịu đựng đánh đập tra tấn hàng ngày. Khi ra tù, tôi mang nhiều thứ bệnh, phổi bị tụ máu và xuất huyết bao tử . Công an tra tấn CS đã biến cơ thể tôi trở thành bộ xương chỉ còn hơn 35 kí lô.  CS có thể hủy diệt thân thể tôi nhưng chúng đã thất bại trong âm mưu hủy diệt ý chí và tinh thần của một “Tù Nhân vì Lương Tri”. Trong ngục lạnh cô đơn, tôi luôn cố tập luyện thiền định hàng ngày để bồi đắp sức mạnh ý chí và tinh thần hầu có thể vượt qua mọi gian khổ.
Với bao năm tháng tù đày trong khám tối và bị tra tấn đánh đập sau gần 15 năm tù, mắt tôi rất sợ ánh sáng chói lòa, thường hay bị nhức đầu, chóng mặt, có lẽ do hậu quả bị đánh bằng báng súng AK47 trước đây.
Cũng vì bị tra tấn đánh đập trong thời gian dài, nên có lúc tôi thấy thường đau nhói bên ngực trái vùng trái tim. Tôi tin đó là hậu quả bị đánh nhiếu quá vào bàn chân và ba sườn. Trong những tháng mùa đông giá lạnh, chân cẳng tôi bị đau buốt đến xương tủy như thể bị kim châm. Mặc dù đã thoát chết, thoát tù đầy đã trên 25 năm qua, nhưng đôi lúc vào nửa đêm chợt thức giấc, trong khoảnh khắc, tôi  thấy mình còn như đang nằm trên nền xi măng vắng lạnh trong ngục tù CS ngày nào.
Xương sống tôi đã bị thương nặng khi một tên trong bọn tra tấn dùng một thế võ đá mạnh vào lưng từ phía sau, khiến tôi té xấp xuống nền. Nhờ được giãi phẩu tại bệnh viện Fairfax năm 1994, những cơn đau nhức cột sống đã thuyên giảm , chân trái của tôi đã bớt tê nhức.
Kính thưa Quý Vị,
Là một cựu tù nhân vì lương tâm, thay mặt cho hàng trăm ngàn các anh em cựu tù nhân chính trị dồng cảnh đang lưu vong, và đặc biệt là nhân danh cho những anh chị em tù chính trị và tôn giáo hiện đang bị giam cầm bởi nhà cấm quyền Hà Nội, và đồng thời cũng đại diện cho 90 triệu đồng bào Việt Nam, Tôi trân trọng thiết tha kêu gọi tất cả quý vị hiện diện nơi đây ngày hôm nay, hãy nói lên cho giới truyền thông quốc tế và Hoa Kỳ biết rõ sự thật về vấn nạn tra tấn nhục hình, đánh đập, bạo lực của công an CSVN đối  với người dân, đồng bào của họ. Tôi cũng xin khẩn cầu quý vị hãy bày tỏ sự quan tâm sâu xa với  Quốc Hội, chính giới và chính phủ Hoa Kỳ, cũng như với các lãnh đạo tôn giáo nước này tiếp tục lên tiếng, áp lực nhà cầm quyền Hà Nội phải lập tức xóa bỏ “tệ nạn tra tấn”, và xử dụng bạo lực với người dân Việt Nam. Bạo lực và áp bức mà nhân viên công an của họ vi phạm hàng ngày trên toàn đất nươc Việt Nam phải được chấm dứt ! Việt Nam phải tôn trọng những điều khoản mà họ vừa ký kết trên văn kiện mới đây với Liên Hiệp Quốc về chống tệ nạn tra tấn. Nhà cầm quyền Hà Nội cũng phải chấm dứt dùng vũ lực giết người để đàn áp đồng bào của mình. Nhân dân Việt Nam phải được bảo vệ bằng một Bộ Luật về chống tra tấn. Giới công nhân, nông dân, các thanh niên, sinh viên Việt Nam yêu nước, quý trọng tự do dân chủ đang bị đán áp cũng chỉ vì họ mơ ước thấy một nước Việt Nam phát triển, với một nền kinh tế giàu mạnh, với một thể chế dân chủ, một nhà nước pháp quyền biết tôn trọng nhân phẩm, một Việt Nam hội nhập hoàn toàn với cộng đồng thế giới.
Một lần nữa tôi chân thành cám ơn quý vị đã lắng nghe và hết mình hỗ trợ nhân dân Việt Nam hiện đang phải sống trong kềm kẹp và áp bức dưới chế độ phát xít CSVN.
Trần Tử Thanh,
Cựu Đại Úy QLVNCH, Cựu Tù Nhân Vì Lương Tâm
Quốc Hội Hoa kỳ, ngày 16.1.2014